Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

Chinh Phụ Ngâm Diễn Nôm - Đoàn Thị Điểm


I
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm giục đường mây
Phép công là trọng, niềm tây sá nào
Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
Bóng cờ tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng
II
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
III
Hà Lương chia rẽ đường này
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp lại về buồng cũ gối chăn
Ðoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
IV
Chàng từ đi vào nơi gió cát
Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
Ôm yên, gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua
Hình khe, thế núi gần xa
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như giội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
Não người áo giáp bấy lâu
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên
Chẳn nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
Lên cao trông thức mây lồng
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!
V
Chàng từ sang Ðông Nam khơi nẻo
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu
Như xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa, nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
Phận trai già cõi chiến trường
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên
Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành
Áng công danh trăm đường rộn rã
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
VI
Trong cửa này đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
Những mong cá nước sum vầy
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục, oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió Ðông
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng, lá rụng cành trâm
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ
Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
Ngập ngừng gió thổi chéo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông
VII
Tin thường lại, người không thấy lại
Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh
Rêu xanh mấy lớp chung quanh
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ
Thư thường tới, người không thấy tới
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy
Tiền sen này đã nẩy là ba
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài
Tình gia thất nào ai chẳng có
Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương
Mẹ già phơ phất mái sương
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
Nay một thân nuôi già dạy trẻ
Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, Ðông nào còn dư
Kể năm đã ba tư cách diễn
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang
Ước gì gần gũi tấc gang
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần dấu đã soi chung
Cậy ai mà gửi tới cùng?
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía
Ngọc cài đầu thuở bé vui tươi
Cậy ai mà gửi tới nơi
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân.
VIII
Trải mấy thu, tin đi tin lại
Tới xuân này tin hãy vắng không
Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng
Gió tây nổi không đường hồng tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
Màn mưa trướng tuyết xông pha
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài
Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai
Há như ai, hồn say bóng lẫn
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Bức rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
IX
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau
Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi
Xót nỗi chàng, ngoài cõi trùng quan
Khác gì ả Chức, chị Hằng
Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối
Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi
X
Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng
Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
Xót người hành dịch bấy nay
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt
Trống tiều khua, như đốt buồng gan
Võ vàng đổi khác dung nhan
Khuê ly mới biết tân toan dường này
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ
Chua cay này, há có vì ai?
Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn
Duy còn hồn mộng được gần
Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người
Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
Sum vầy mấy lúc tình cờ
Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân
Giận thiếp thân lại không bằng mộng
Ðược gần chàng bến Lũng, thành Quan
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
Duy có một tấm lòng chẳng dứt
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
Lòng theo song chửa thấy người
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
Trông bến Nam, bãi che mặt nước
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh
Nhà thôn mấy xóm chông chênh
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách
Rườm rà xanh cây ngất núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu
XI
Non Ðông thấy lá hầu chất đống
Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu
Ngàn thông chen chúc khóm lau
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về
Trông bốn bề chân trời mặt đất
Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
Gậy rút đất dễ khôn học chước
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên
Lòng này hóa đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trông lầu
Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa
Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng bởi tại bóng dương
Hoa vàng hoa rụng quanh tường
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần
XII
Chồi lan nọ trước sân đã hái
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương
Sửa xiêm dạo bước tiền đường
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ
Ðộ Khuê Triền buổi có buổi không
Thức mây đòi lúc nhạt hồng
Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
Bừng mắt trông sương gội cành khô
Lạnh lùng thay, bấy nhiêu thu
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi
Một năm một nhạt mùi son phấn
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi
Xưa sao hình ảnh chẳng rời
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
Gió Xuân ngày một vắng tin
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
Thương một kẻ phòng không luống giữ
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh
Xuân thu để giận quanh ở dạ
Hợp ly đành buồn quá khi vui
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước
E đến khi đầu bạc mà thương
Mặt hoa nọ gã Phan Lang
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt
Lầu hoa kia phảng phất mùi hương
Trách trời sao để nhỡ nhàng
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên
XIII
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội
Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương
Chẳng xem chim yến trên rường
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau
Kìa loài sâu đôi đầu cùng cánh
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay
Liễu, sen là thức cỏ cây
Ðôi hoa cũng dính, đôi dây cũng liền
Ấy loài vật tình duyên còn thế
Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh, như cây liền cành
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền
Mọi bề trung hiếu, thiếp xin vẹn tròn
XIV
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt
Sức tý dân dường sắt trơ trơ
Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi
Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn
Mũi đòng vác đòi lần hăm hở
Ðã lòng trời gìn giữ người trung
Hộ chàng trăm trận nên công
Buông tên ải Bắc, treo cung non Ðoài
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh
Ðỉnh non kia, đá đề danh
Triều thiên vào trước cung đình dâng công
Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch
Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân
Nền huân tướng nên công rạng vẻ
Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông
Ơn trên: tử ấm thê phong
Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời
XV
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
Khi về đeo quả ấn vàng
Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
Xin vì chàng giũ lớp phong sương
Vì chàng tay chuốc chén vàng
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm
Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu
Câu vui đổi với câu sầu
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
Sẽ rót vơi lần lần từng chén
Sẽ ca dần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đòi phen
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
Ngâm nga mong gửi chữ tình
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!

Nguồn:

(1) Bản Chinh phụ ngâm khúc của Vân bình Tôn Thất Lương dẫn giải và chú thích, Tân Việt, 1950. (Ghi tác giả bản dịch chữ nôm là Đoàn Thị Điểm.)

(2) Bản Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc của Nguyễn Văn Xuân, Lá Bối, Saigon, 1972. (Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Xuân, tác giả bản nôm là Phan Huy Ích, không phải là Đoàn Thị Điểm.)


Nghệ thuật trào phúng trong thơ Trần Tế Xương: Cười đó rồi khóc đó



.
.
Tú Xương (Tranh của họa sĩ Trần Quang Trân vẽ sau khi ông Tú mất khoảng 20 năm) (Ảnh tư liệu)
Yếu tố trào phúng và trữ tình trong thơ Trần Tế Xương thường đan xen nhau, trong cái này luôn có cái kia và ngược lại.
Những bài nghiên cứu về Tú Xương, nhất là của các nhà thơ, nhà nghiên cứu có uy tín như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Trần Thanh Mại, v.v… đều dành bút lực tập trung khai thác nhiều phần trữ tình, phần đau thương, xót xa của Trần Tế Xương trước thời cuộc mất nước và cảnh nghèo khổ, bần cùng của bản thân. Nhưng có điều lạ, đông đảo độc giả lại nhớ Tú Xương nhiều hơn với tư cách nhà thơ trào phúng, họ thường vận dụng các câu thơ có tính nghịch cảnh, nghịch lý, gây cười của ông. Như vậy, trong văn hóa đại chúng, người đọc nhìn Tú Xương với tư cách nhà thơ trào phúng, còn trong văn hóa hàn lâm, người ta khai thác sâu vị thế nhà thơ trữ tình của ông.
Nhìn một cách khái lược, trong thơ trào phúng luôn có những yếu tố đi cùng đại chúng, thời cuộc; còn thơ trữ tình hay đi với những điều nghiêm chỉnh, nghiêm ngắn. Khi thời cuộc có nhiều nghịch lý, lố bịch và vô lý trong đời sống, những người sáng tác, nhất là sáng tác dân gian, thường chĩa ngòi bút vào và khai thác các mặt đen trắng, mâu thuẫn đó thành tiếng cười. Do đó, người ta tổng kết, khi trào phúng phát triển, xã hội thường có những rối loạn, loạn chuẩn; khi trào phúng ít đi, nói chung xã hội đạt được sự nghiêm túc, căn cơ. Điều này nếu áp vào thời của Tú Xương, sau Hiệp định 1884, triều đình Huế nhường toàn bộ quyền quản lý cho Pháp, nước ta mất hoàn toàn vào tay thực dân, từ đây sản sinh ra một tầng lớp mới là đám công chức đi làm cho Pháp, nảy sinh chủ nghĩa tư bản ở thành thị. Cùng với đó là lối sống mới, nhân sinh quan mới mâu thuẫn với triết lý nhà Nho. Tất cả những điều này kích thích Tú Xương sắc sảo nhìn ra các mặt đối lập đó. Tất nhiên, bên cạnh Tú Xương còn có những cây bút khác, có thể tài không bằng ông, nhưng cũng tạo ra sự đồng thanh tương ứng. Đây là thời kỳ đề tài chế giễu, bài bác, đả kích rất phát triển.
Cười người và cười mình
Thơ trào phúng của Tú Xương rất phong phú, vì nó là tấm gương soi chiếu cuộc đời nên cuộc đời có gì thì nó hiện lên, không phân biệt đề tài lớn, nhỏ. Hễ chúng đụng vào tâm hồn, trái tim, tư tưởng của Tú Xương thì ông đều tìm ra tiếng cười đả kích. Tuy nhiên, nhìn một cách hệ thống, ta có thể hình dung về hai mảng đề tài lớn trong thơ trào phúng Tú Xương. Trước hết là cảnh đời, xã hội khách quan. Ở đó, ông tìm ra những điều trái đạo lý như chuyện nhà sư phá giới, tằng tịu với đệ tử, chuyện những kẻ dốt nát lại được làm quan, việc thi cử và thái độ ngạo mạn của bọn thực dân, những suy vi thoái trào của đạo học và nền nếp Nho giáo.
Mảng đề tài thứ hai khá nổi bật trong thơ Tú Xương là tinh thần trào lộng, tự giễu cợt. Biết tự cười mình luôn là bản lĩnh rất lớn và ngạo nghễ của những người có cá tính. Với Tú Xương, ông tự thấy bản thân có những nghịch lý để tự trào. Ông là người thông minh, có tài thơ văn, nhưng thi mấy lần cũng chỉ đỗ đến tú tài, đạt được cái bằng cũng không dùng để đi làm mà chỉ là thứ ghi nhận một nấc thang học vấn. “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”, ông tự giễu mình, tự lấy mình ra sỉ vả, và vì không động chạm đến ai nên ông thường phóng to nhược điểm của mình. Qua đó cho thấy, trong những nghịch lý này có lỗi của thời đại, xã hội. Chẳng hạn, ông không có nhiều quần áo, chỉ có một tấm áo bông rất đẹp. Do đó, khi phải tiếp khách, dù trời nóng phát sốt, ông vẫn phải mặc áo rét. “Bức sốt mà mình vẫn áo bông - Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không”. Cảnh đó thật buồn cười, nhưng sau cái cười là sự thương cảm với thân phận nhà thơ nghèo khổ.
Rồi chuyện Tú xương phải lo việc nhà để vợ đi buôn bán kiếm tiền. Mặc dù không giỏi việc gia chánh nhưng vì không biết kiếm tiền nên Tú Xương phải ở tư thế “làm vợ” với những câu tự giễu mình như: “Vuốt râu nịnh vợ con bu nó - Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”. Ra đời thì quắc mắt coi thường mọi người vì ỷ thế là người có tài, nhưng về nhà vẫn phải nịnh vợ vì kinh tế do vợ nắm. Mà thời đồng tiền làm chủ thì kinh tế quan trọng lắm, nên vẫn phải “Vuốt râu nịnh vợ con bu nó” là thế.
Cái hay ở Tú Xương là đằng sau việc ông tự giễu ông nhà Nho, ta thấy cả một đạo học suy vi. Thời trước là “duy hữu độc thư cao”, chỉ người đọc thánh hiền mới đáng được coi trọng, thì bây giờ không còn như vậy nữa. Thậm chí có lúc ông coi mình như một thứ ăn hại, như đứa con trong số những đứa con bà Tú phải nuôi. Không ai lấy chồng cộng với con thành một nhóm như Tú Xương đã viết trong bài Thương vợ.
Ông tổ của thơ trào phúng
Đầu thế kỷ XX, năm 1907, Tú Xương tạ thế. Hai năm sau, năm 1909, Nguyễn Khuyến tạ thế. Đây là hai nhà thơ cổ điển cuối cùng của nền văn học kéo dài suốt 10 thế kỷ viết bằng chữ Hán của Việt Nam. Nhưng người ta thường xem Nguyễn Khuyến là tác gia cuối cùng kết thúc cho một dòng văn học theo lối văn chương cử tử, thì với Tú Xương, tác phẩm của ông lại được liệt vào hàng những tác phẩm mở đầu cho một luồng gió mới, đại diện cho tâm tư, tình cảm của lớp người mới, những thị dân sống ở thế kỷ XX.
Tú Xương xuất hiện trong hai tư cách: nhà thơ trữ tình và nhà thơ trào phúng. Lẽ dĩ nhiên, không thể phủ nhận phần đóng góp rất lớn của ông ở mảng thơ trữ tình, nhưng cái làm quần chúng nhớ tới ông nhiều hơn chính là tư cách nhà thơ trào phúng.
Tú Xương, bằng những tác phẩm trào phúng để đời của mình như Năm mới chúc nhau, Đất Vị Hoàng, Lễ xướng danh, Thói đời…, đã góp phần khai sinh một dòng thơ mới, mà kế đó là một loạt nhà thơ trào phúng bắt chước tên Tú Xương như Tú Mỡ (nhà thơ trào phúng viết bằng chữ quốc ngữ), Tú Nạc, Tú Sụn, Tú Sót, Tú lơ mông (đọc theo tiếng Pháp, có nghĩa là tất cả mọi người). Đánh giá về thành công của một tác giả thơ, có thể có nhiều tiêu chí, nhưng việc có những người bắt chước cách viết của nhà thơ ấy cũng có thể coi là một trong những tiêu chí nhận diện. Như vậy để thấy sức ảnh hưởng rất lớn của Tú Xương đã thúc đẩy sự ra đời của cả một dòng thơ trào phúng hiện đại, khởi đầu là Tú Mỡ. Việc tìm ra tình huống hài hước và tìm ra ngôn ngữ miêu tả đắc địa những tình huống ấy đều là những sở trường của dòng thơ trào phúng xuất phát từ Tú Xương. Cố nhiên sau này có rất nhiều biến hóa, có thêm đóng góp của các nhà thơ hiện đại, đương đại, nhưng cú hích đầu tiên là ở Tú Xương. Và hiện nay, ít người nhắc tới tên thật, tên ghi trong khai sinh của ông là Trần Kế Xương (hay Trần Tế Xương) mà thường gọi là Tú Xương, đó là cách gọi đại chúng, cũng như cách ta gọi những ông tuần, ông cử, ông phủ, đó là cách gọi của dân gian. Gọi Tú Xương là gọi theo cách gọi dân gian, đó là cách gọi để ghi nhận mạch thơ trào phúng của ông. Có thể thấy, trào phúng chưa phải là mạch chính của Tú Xương, nhưng sự ảnh hưởng lớn của ông trên văn đàn lại chính là dòng mạch này. Và đây sẽ là vấn đề cần được giải thích kỹ hơn để có thể nối được giai đoạn từ cổ điển sang hiện đại, đương đại, để thấy sự chuyển đổi giữa các trào lưu văn học như thế nào.
Nói về đề tài, có lẽ cũng nhiều người như Tú Xương đã khai thác tiếng cười từ những chệch choạc, nhố nhăng trong xã hội và tự cười nhạo chính mình để nói lên những thói tật của đời sống. Nhưng về mặt nghệ thuật, Tú Xương đã tạo nên được một giọng điệu rất riêng bởi cá tính độc đáo của mình.
Trước hết, ông tạo nên được những tình huống, tình thế đặc biệt. Chẳng hạn trong câu “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt - Dưới dân ông Cử ngỏng đầu rồng”. Bà đầm vợ ông quan Tây đến dự lễ xướng danh thì ngồi trên ghế. Các ông quan thời đó ở dưới sân. Khi đọc xướng danh, phải lạy thiên tử. Khi người đỗ - tiêu biểu cho đạo học - lại ở dưới thấp và cúi lạy bà đầm - tiêu biểu cho bọn thống trị, ngồi ở chỗ cao thì Tú Xương lại chỉ lia cái ống kính của mình quay cận cảnh. Cái đứa ngồi ông chỉ quan tâm tới cái mông của nó. Còn người quỳ ở dưới, ông chỉ quan tâm tới cái đầu. Vậy tình thế ở đây là anh thống trị - anh bị trị, anh vô học - anh có học, cái đít vịt - cái đầu rồng, đó là cái đáng gây cười. Còn thái độ được biểu lộ qua chữ “ngỏng”, đó là chữ rất nghịch ngợm của Tú Xương. “Bà ngoi - ông ngỏng”, hình ảnh đó khiến sân khấu của lễ xướng danh thành ra như trò hề không ra đầu đuôi gì cả.
DƯƠNG KIM THOA


Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật trong truyện Kiều của Nguyễn Du qua một số đoạn trích


     Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều , người ta thường hay chú ý trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay , tinh tế thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du ,cũng như cách dùng hư từ , khối lượng từ đồng nghĩa , từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao , thành ngữ, tục ngữ ...
   Ví như hai từ đầy đặn , nở nang trong câu thơ “ Khuôn trăng đầy đặn / Nét ngài nở nang” khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa ,đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân , cũng như cả cái nét ngài minh bạch ,rõ ràng , uốn cong thanh tú của nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận , của cuộc đời nàng . Hai chữ thua , nhường trong câu thơ “Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da” dùng để chỉ thiên nhiên và cũng chính là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng , không hề có chông gai .
   Hay như chữ thông minh trong câu “Thông minh vốn sẵn tính trời” dùng để nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó là một nhãn tự nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầu câu , nó không chỉ nhằm khắc hoạ một tính cách mà là cả một nhân cách . Kiều đẹp sắc sảo, mặn mà - Một vẻ đẹp vừa rực rỡ , vừa hấp dẫn , rất có hồn . Nhưng Kiều chiếm được cảm tình nơi bạn đọc không phải vì cái vẻ sắc nước hương trời ,cùng tài năng hiếm có cuả nàng , mà chủ yếu là phẩm cách tuyệt vời và một trí tuệ hơn người . Trong tác phẩm Truyện Kiều , Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy . Chẳng hạn như câu “Anh minh phát tiết rangoài” … Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thuý Kiều . 
  Còn như từ não trong câu “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân” . Ở đây , Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác .Nội hàm ý nghĩa của từ này diễn đạt nỗi buồn đã có sẵn tự trong lòng . Nó không chỉ đơn thuần là sầu , buồn , là những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não lòng , não nuột) . Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can người đọc . Bởi lẽ , khúc nhạc tiêu tao của thiên bạc mệnh ấy đã từng khiến cho biết bao người rung cảm, sầu não theo từng khúc nhạc não nề . Nó đã từng khiến cho Kim Trọng nao nao lòng người , Thúc Sinh phải tan nát lòng và cho cả trái tim vô tình, sắt đá của quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến cũng phải cảm thương mà rơi châu nhỏ lệ . Cung đàn bạc mệnh của Kiều đã trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm và số phận bi thương của Kiều là vì thế . Cả câu “Não người cữ gió tuần mưa” thì từ não cũng được dùng với ý nghĩa như vậy .
   Nhiều người cho rằng, Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt . Đắt vì nhiều khi chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người . Đó là trường hợp câu thơ “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” mà nhà thơ dùng để khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh lúc đến hỏi Kiều về làm vợ . Một kẻ đã ngoài tứ tuần mà Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao thì thật nực cười và kỳ cục đến không thể chấp nhận được. Bởi nhẵn nhụi là từ ngữ người ta thường dùng để chỉ độ trơn , bóng , láng của đồ vật , chứ không phải dùng để chỉ tính chất trang nhã , lịch sự của con người . Còn từ bảnh bao thường dùng để khen trẻ em có quần áo đẹp lại dùng cho Mã Giám Sinh thì lại có ý chế giễu , mỉa mai . Một kẻ đã nhiều tuổi nhưng lại cố ý tô vẻ , tỉa tót thì lại trở nên kệch cỡm , giả tạo và có phần trai lơ , đàng điếm .
 Đặc sắc nhất vẫn là cách dùng từ trong câu “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” - một cử chỉ vội vàng , khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải hạ ngay một từ sỗ sàng . Cử chỉ ấy không phù hợp với một người đi hỏi vợ và lại càng không đúng với phẩm cách văn hoá của một Giám Sinh . Nó quá bất ngờ so với sự chờ đợi của người đọc, quá phi lý so với vai trò của một sinh viên trường Quốc Tử Giám . Cử chỉ này là tín hiệu đầu tiên để bước đầu khẳng định bản chất của Mã Giám Sinh . Tự định vị một cách vô lễ , trịch thượng, chướng mắt trên chiếc ghế của người bề trên ( những bậc cao niên ) càng cho thấy tính chất vô học và nhất là tâm lý hợm cúa của kẻ buôn người giàu có . Chỉ một chữ tót đã phủ nhận vai trò giám sinh của gã họ Mã .
  Như thế cũng chưa đủ . Cái cách cò kè thêm bớt đến cả một giờ lâu rồi mới ngã giá vàng ngoài bốn trăm thì Nguyễn Du đã lột tả được bộ mặt gớm ghiếc, giả dối của Mã Giám Sinh . Hắn đã hiện nguyên hình là một gã con buôn lọc lõi chỉ cần biết một điều là làm sao mua được món hàng với giá hời nhất , chỉ cần một vốn mà có đến bốn lời là được .Chỉ với một từ cò kè rất con buôn, Nguyễn Du đã cho ta thấy được bộ mặt tàn ác, dơ bẩn nhất của bọn buôn thịt bán người mà Mã Giám Sinh là đại diện .
   Và trong đoạn đời đầu tiên của bước lưu lạc, lúc Kiều được đưa ra ở lầu Ngưng Bích, nàng đã sống trong một tâm trạng buồn tủi , chua xót đến cực độ . Nàng đâu còn cơ hội khoá kín tuổi xuân của mình nữa . Nàng không còn giữ được chữ trinh đối với chàng Kim thì hai chữ khoá xuân lại đầy mỉa mai đối với nàng . Thực chất nàng đang bị Tú Bà giam lỏng để chờ ngày kén chồng tử tế , nhưng thực ra là mụ đang rắp tâm thực hiện một âm mưu mới .
   Trong cảnh vò võ cô đơn , trơ trọi nàng đã tưởng nhớ đến người yêu . Chỉ một từ tưởng mà nói được bao điều . Nếu mơ là luôn nghĩ đến những kỉ niệm , những điều tốt đẹp về nhau ; hay nhớ cũng là nghĩ đến những điều tốt đẹp nhưng lại có thêm ý mong mỏi có ngày gặp lại thì tưởng cũng là mơ là nhớ nhưng với Kiều chỉ là tưởng , chỉ xem mối tình đầu trong trắng, ngây thơ của mình là một kỉ niệm đẹp , không dám mơ tưởng những gì xa xôi lại càng không dám mong gì ngày gặp lại .
   Nhớ người yêu , Kiều cũng rất nhớ về cha mẹ . Nhưng Nguyễn Du không dùng thương hay nhớ mà lại dùng một chữ xót ở đầu câu thơ . Bởi xót đâu chỉ đơn thuần là nhớ , là thương mà còn bao hàm cả nỗi giận đời và trách mình .
   Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông ở cuối đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích ta càng thấy Nguyễn Du không hề vô tình khi đặt chữ buồn đứng trước chữ trông .Buồn mà trông ,buồn rồi mới trông là nỗi buồn thấm sâu tự đáy lòng Kiều để rồi trông vào mọi vật nàng chỉ thấy thấp thoáng mơ hồ , tàn tạ, héo uá như chính cuộc đời của nàng cùng với nỗi lo sợ hãi hùng về một tương lai mờ mịt . Thật đúng là “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” .
  Đọc Truyện Kiều ta còn bắt gặp được nhiều câu thơ , nhiều từ ngữ đặc sắc như thế . Chữ cậy emvà chữ chịu lời trong câu 723 dùng thật khéo . Cụ Nguyễn Du dùng chữ cậy là tuyệt hay vì nếu thay chữ nhờ và chữ nghe lời vào thì câu thơ sẽ là Nhờ em em có nghe lời thành ra quá áp đặt , câu thơ trở nên tầm thường, nhạt nhẻo , không còn ý vị gì nữa . Vì điều Kiều sắp nói cho em biết thuộc về chữ tình nên chưa chắc em đã nhận lời cho . Do vậy , dùng cậy và chịu lời là hợp lý nhất .
  Chữ tốc dùng trong câu 1.133 Tú Bà tốc thẳng tới nơi lúc sở khanh đưa Kiều chạy trốn là tuyệt khéo . Chỉ mới nghe câu thơ ấy thôi cũng đủ biết rằng mụ Tú Bà giận dữ lắm , dáng bộ hung hăng, vội vàng lắm , mặc dù điều đó nằm trong âm mưu của mụ nó hoàn toàn khác cái vẻ thong dong khi mụ dạy Kiều nghề chơi. Một chữ tốc thôi nhưng có sức mạnh lạ thường .
Như chỗ nàng Kiều vượt tường để trốn khỏi Quan Âm Các của nhà họ Hoạn “Cất mình qua ngọn tường hoa” – câu 2.227 . Chữ cất dùng ở đấy thật tuyệt . Vì ý nó mơ hồ ,ta không thể biết được là nàng Kiều văng mình qua tường hay trèo qua tường để trốn đi .
   Hay như chữ chặn trong cặp câu thơ 3.181 , 3.182 trong màn Đoàn viên : “Thân tàn chặn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta” . Nguyễn Du dùng chặn mà không dùng gạn . Bởi vì từ chặn được dùng với nghĩa chặn dòng đục trong quá khứ của cuộc đời Kiều . Quả thật với hoàn cảnh Kiều lúc bấy giờ thì không thể gạn đục khơi trong được . Chữ chặn vì thế mà có giá trị biểu cảm cao .
  Nhìn chung, từ ngữ Truyện Kiều không chỉ hay mà còn rất đắt , rất độc đáo. Nhiều chữ được dùng đi, dùng lại rất nhiều lần nhưng với một nét nghĩa mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sử dụng từ thân, 59 từ xuân, 14 từ ngựa , rất nhiều lần sử dụng chữ tâm và chữ tài . Ngay như chữ chút là một 
uyển ngữ rất khó dùng , thế mà Nguyễn Du sử dụng được 47 chữ như thế … 
1. Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều 
     Là nhà thơ thiên tài của dân tộc , Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ , xây dựng hình tượng nhân vật . Vì thế ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều . Cũng giống như người xưa , nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết - mai , trăng - hoa, mây - tuyết , thu thuỷ - xuân sơn , hoa - liễu …Làm chuẩn mực , làm thước đo giá trị , vẻ đẹp của con người . Tác giả đã dùng bút pháp cực tả tuyệt đối hoá , lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách hai chị em Kiều . Đó là Mai cốt cách , tuyết tinh thần , khuôn trăng , nét ngài , hoa cười ngọc thốt , mây thua, tuyết nhường , làn thu thuỷ, nét xuân sơn , hoa ghen, liễu hờn …Để khắc hoạ cái cốt cách thanh tao , mảnh dẻ như mai ; tinh thần trong trắng như tuyết. Một vẻ đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ của chị em Kiều .
     Tả nàng Vân kiều diễm, Nguyễn Du dùng khuôn trăng, nét ngài , hoa cười, ngọc thốt , mây thua , tuyết nhường cùng với một số từ nôm na như khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân , vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất bình lặng của nàng .
   Còn với Kiều , Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều . Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều . Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt . Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung tuyệt mỹ của giai nhân như : Làn thu thuỷ , nét xuân sơn , hoa ghen , liễu hờn … Với bút pháp lý tưởng hoá , Kiều hiện ra trước mắt người đọc bằng hình ảnh một thiếu nữ có đôi mắt trong sáng , bình lặng như mặt nước hồ thu ; nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa xuân .Thật là một dung nhan rực rỡ , sắc sảo mặn mà , vừa có duyên, vừa có hồn . Nhưng đẹp đến độ sắc nước hương trời , chim sa cá lặn , nước thành nghiêng đổ , hoa phải ghen , liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ … Mười lăm năm lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó .
   Là một nghệ sĩ về ngôn từ , Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn . Nói tới nỗi buồn của người đẹp , nhà thơ gắn với những thềm hoa ,lệ hoa , rồi nét buồn như cúc , điệu gầy như mai … Nói chung , qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng , rất Nguyễn Du , nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc .
2. Ngôn từ thiên nhiên (vũ trụ thi ca) của Truyện Kiều .
    Theo tác giả Đặng Tiến thì vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không gian với chân trời rộng . Ngoài thảm cỏ non phải xanh tận chân trời ( Cảnh ngày xuân) thì không gian còn là một vũ trụ rộng, trống, mờ xa tít tắp với vẻ non xa , tấm trăng gần ; với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Đó là một vũ trụ từ chối cuộc sống, từ chối con người -một vũ trụ mà cảnh vật bốn bề bát ngát xa trông, bên thì cồn cát nhấp nhô như sóng lượn , bên thì bụi hồng trải dài khắp dặm xa mênh mông .
 Ngoài ra, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ vũ trụ thi ca : Con đường khuya thì phải ngắt tạnh mù khơi , màu của rừng thu phải là màu quan san , khung trời thương nhớ phải gợn áng mây Tần xa xa , đến túp lều cỏ bên sôngTiền Đường cũng phải là “Một gian nước biếc mây vàng chia đôi” . Bên cạnh đó còn có những dặm vi lô hiu hắt , những bờ liễu loi thoi , những rừng phong quan tái . Rồi đến cảnh màu xanh tơ liễu bên cầu , gió cây trút lá , mấy ngàn dâu xanh xuất hiện trong Truyện Kiều những giờ phút chia phôi , những lúc bước chân ngập ngừng , những lúc tâm hồn phân tán … Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân loại bằng cái nhìn phơi trải trong hình ảnh non phơi bóng vàng , cái nhìn đo lường kích thước cuộc sống hằng ngày để xác định vị trí ,tầm sống của mình trước cuộc đời .
3 . Về ngôn từ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều 
    Truyện Kiều có nhiều từ ngữ chỉ màu sắc (có đến 119 lần) , với nhiều màu khác nhau. Nguyễn Du dùng từ chỉ màu sắc để tạo thành các hình tượng có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ .
    Trước hết cần xét từ ngữ chỉ màu sắc trong các đoạn trích học ( sách Ngữ Văn 9 - tập 1) :
   Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây ; làn da trắng mịn hơn cả tuyết  “ Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”  . Ở đây, Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc . Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc mây .
   Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt khiến liễu phải hờn ( Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh ) .
   Rồi đến màu cỏ non xanh tận chân trời , một màu xanh trải dài mênh mông tít tắp , mà nổi bật trên cái nền toàn cảnh màu xanh ấy là sự điểm xuyết của một vài bông hoa lê màu trắng . Những màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt dịêu làm cho bức tranh thiên nhiên càng thêm tươi đẹp - những màu sắc tươi sáng, đầy sức sống .
  Không chỉ có màu trắng , màu xanh , Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng,  màu hồng trong câu “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” . Đó không chỉ đơn thuần là sắc vàng của cồn cát nhấp nhô, sắc hồng của từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh mông mà còn là cát bụi của cuộc đời .
  Đó là màu vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu / Chân mây mặt đất một màu xanh xanh – là những màu buồn ,ảm đạm, thiếu sức sống , màu của bế tắc, không lối thoát .
   Trong Truyện Kiều ,từ ngữ chỉ màu sắc ít có tính chất tả thực mà nặng về tính biểu trưng . Tác giả thường lấy màu của sự vật để tả cảnh, gợi tình. Ở đây có mặt sắt đen sì của Hồ Tôn Hiến , có lờn lợt màu da của mụ Tú Bà, mặt như chàm đổ của Thúc Sinh v.v... Màu cỏ cũng đa dạng : khi thì “Cỏ non xanh tận chân trời” , khi thì “Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” khi thì cỏ lợt màu sương , khi thì cỏ áy bóng tà, khi thì “Một vùng cỏ mọc xanh rì” … 
   Với Nguyễn Du, màu sắc là sản phẩm của cảnh vật và tâm lý . Màu cỏ non xanh gắn với bao cảm xúc bao la về viễn cảnh của cuộc đời , với vẻ thanh tân, trinh trắng của một vài bông hoa lê đầu mùa , ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh như cuộc đời dang dở . Cỏ áy bóng tà - cỏ nhuốm ánh vàng của nắng chiều như có cái gì xốn xang, day dứt .
   Màu sắc trong Truyện Kiều còn là màu sắc của tình cảm . Đó là những màu quan san, màu quan tái , màu khơi trêu , màu của nỗi nhớ “Bốn phương mây trắng một màu / Trông vời cố quốc biết đâu là nhà” . Hay “Trời cao trông rộng một màu bao la”. Có thể nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà còn nắm bắt và diễn tả cả sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho phong cảnh trở nên sinh động, có hồn …
4.Về cách sử dụng hư từ 
    Theo ý kiến của nhiều người thì vấn đề dùng hư từ chỉ có Truyện Kiều của Nguyễn Du là dùng đúng nhất .Cụ thể là các chữ : bao, bấy được dùng một cách độc chiếc trong Truyện Kiều .”Trải bao thỏ lặn ác tà” ; “Quản bao tháng đợi năm chờ” ; “Trời Liêu non nước bao xa” ; “Biết bao duyên nợ thề bồi” ; “Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao” . Năm chữ bao ấy đều dùng chữ bằng nào mà cắt nghĩa được cả : trải bằng nào ngày đêm ; đợi chờ đến bằng nào năm tháng ; xa bằng nào ; thề bồi bằng nào ; đội trên đầu bằng nào . Tất cả đều có ý hỏi để tỏ ra nghiã là nhiều không phải ít . Cũng vậy, chữ bấy được dùng độc chiếc như : “Khéo vô duyên bấy là mình với ta” ; “Phủ phàng chi bấy hoá công” ; “Trời làm chi cực bấy trời” ; “Thân sao bướm chán , ong chường bấy thân” ; “Hoa sao hoa khéo đoạ đày bấy hoa” . Năm chữ bấy ấy đều dùng bằng ấy mà cắt nghĩa được cả : vô duyên bằng ấy , phũ phàng bằng ấy , cực bằng ấy , chán chường bằng ấy , đoạ đày bằng ấy ; Đều có ý tỏ lòng thương tiếc hoặc trách móc .
   Rồi đến chữ bây , nhưng chữ này không thể dùng độc chiếc ( Lão kia có giở bài bây) .
    Nhà thơ Nguyễn Du đã đặt sau các chữ bao , bây , bấy một chữ để làm thành liên tự chỉ thời gian như : bao giờ , bây giờ , bấy giờ … Những hư từ này được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều
Các liên từ : bao nhiêu , bấy nhiêu cũng được sử dụng một cách linh hoạt trong tác phẩm , cụ thể là 3 trường hợp sau :
* “Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường” ; “Bao nhiêu của , mấy ngày đườn”g . Bao nhiêu dùng độc chiếc không đi đôi với bấy nhiêu.
* “Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên” ; “Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình” , 
thì bấy nhiêu dùng độc nhất không đi với bao nhiêu .
* “Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi”; Bao nhiêu đi đôi với bấy nhiêu …

5 . Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật
a / Trước hết, cần nói đến từ ngữ mang phong vị ca dao , thành ngữ , tục ngữ 

    Ở đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Truyện Kiều, xuất hiện một tứ thơ mang phong cách thành ngữ tục ngữ . Để diễn tả nỗi lòng tưởng nhớ người yêu , xót thương cha mẹ , Nguyễn Du đã biểu đạt tâm tư ấy qua chiều dài của thời gian và khoảng cách của không gian như : dưới nguỵêt chén đồng , rày trông mai chờ , tựa cửa hôm mai cách mấy nắng mưa , chân trời góc bể , tấm son gột rửa, hoa trôi man mác , nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt đất , gió cuốn mặt duềnh ,ầm ầm tiếng sóng… Những từ ngữ này làm cho cách sử dụng ngôn từ trở nên gần gũi , dễ hiểu , mang đậm màu sắc dân tộc .
b / Cách tạo từ mới đặc sắc trong Truyện Kiều 
    Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ không có trong thực tế , cũng không có trong từ điển thông thường ; mà theo ông Trần Đình Sử đó là những ngôn từ ý tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng , không phải là hình ảnh sao chép thực tại ) có cấu tạo riêng , nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả :
   Nói tới nước mắt thì nói giọt ngọc , giọt châu , giọt tương , giọt hồng , giọt tủi, giọt riêng ...
  Nói đến giấc ngủ thì ông nói giấc xuân , giấc mai, giấc hoè , giấc tiên, giấc nồng …
  Nói tới mái tóc , không chỉ là tóc mây , tóc sương mà là mái sầu . 
  Nói tới đường xa , ông nói thành dặm hồng , dặm xanh , dặm băng ,dặm khách , dặm phần …
  Nói tới chén rượu ông lại nói tới chén xuân , chén quỳnh , chén đưa, chén mời , chén khuyên chén đồng … mang đầy sắc thái khác nhau của tình huống .
  Nói tới cửa sổ ông cũng nói bằng những từ của riêng ông : song sa , song mai , song hồ , song mây , song trăng , song đào , song phi …
  Nói tới bóng trăng thì là bóng nga, bóng nguyệt …
   Nói tói tấm lòng thì ông gọi là tấm riêng , tấm yêu , tấm son ,tấm thành hoặc tấc cỏ ,tấc riêng , tấc son, tấc lòng …
  Cùng là gió mà có bao nhiêu thứ gió như : gió mưa , gió trăng , gió trúc mưa mai, gió tựa hoa kề , gió tủi mưa sầu …
  Những ngôn từ ý tượng này cũng là phương diện cơ bản của ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều . Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá .
 Nhà thơ cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp không đâu có . Chẳng hạn : ăn gió nằm mưa , bướm chán ong chường , bướm lả ong lơi, cười phấn cợt son ,dày gió dạn sương, gìn vàng giữ ngọc, gió gác trăng sân, gió thảm mưa sầu , gió trúc mưa mai , gió giục mây vần , hoa thải hương thừa , hồn rụng phách rời , lấy gió cành chim , tô lục chuốt hồng , tiếc lục tham hồng , liễu ép hoa nài , liễu chán hoa chê , ngày gió đêm trăng , nắng giữ mưa gìn …Các cấu tạo đặc biệt này diễn đạt một trạng thái sự vật có ý nghĩa phổ quát , diễn ra nhiều lần và chỉ hiểu được trong ngữ cảnh tác phẩm Truyện Kiều mà thôi .
   Nói tóm lại, trong văn học Tiếng Việt , chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ mới tự đứng lên biểu diễn như một nghệ thuật . Nói Nguyễn Du là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ chính là nói đến cách ứng xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ dân tộc và hiệu quả của nó . Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca nói chung mà Nguyễn Du là một tấm gương tiêu biểu . 
( Sưu tầm)


Cung oán ngâm khúc




Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung oán ngâm khúc 
Văn học Việt Nam thế kỷ 18 đạt những thành tựu rực rỡ vì đã chứng kiến sự ra đời nhiều tác phẩm Nôm xuất sắc ở cả hai mặt: nội dung phản ánh thời đại sâu sắc và trình độ nghệ thuật điêu luyện. Một trong những tác giả có công lao đóng góp vào thành tựu ấy là Nguyễn Gia Thiều. 
Thời đại Nguyễn Gia Thiều sống là thời đại có nhiều biến động. Loạn lạc, đói kém khắp nơi. Vua chúa quan lại ăn chơi trụy lạc, tranh chấp, loại trừ nhau. Dân nghèo bị đàn áp, bóc lột. Binh sĩ bỏ thây ở các chiến trường. Trong triều đình, ngoài thôn xóm, từ quý tộc đến bình dân đều cảm thấy hãi hùng, bế tắc. Sự lo lắng về thân phận con người mặc nhiên được đặt ra cho những ai có ý thức quan tâm đến hiện thực bất bình và vấn đề nhân đạo. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (có nhiều bản dịch) đã là một tiếng nói phản đối chiến tranh. Cung oán ngâm khúc góp thêm lời tố cáo cuộc sống chán chường mệt mỏi, bất bình vì những cay nghiệt: Cảnh phù du trông thấy mà đau! 
Nguyễn Gia Thiều là con của quận chúa Quỳnh Liên. Ông gọi chúa Trịnh Cương là ông ngoại. Cha ông là một võ quan, được phong tước Đạt vũ hầu. Ông được lui tới trong phủ chúa, do đó được nhìn thấy tận mắt cảnh ngộ của những cung nữ bị bỏ rơi. Ông đã dùng lối văn độc thoại, làm lời một cung phi tài sắc trình bày tâm trạng và nỗi đau đớn bị vua ruồng bỏ. Người phụ nữ trong khúc ngâm đã lên tiếng. Nàng ý thức rõ rệt về phẩm chất, tài năng của mình, nàng tố cáo cuộc sống phè phỡn xa hoa của bọn vua chúa, biến người cung nữ thành thứ đồ chơi. Nàng miêu tả nỗi thê thảm trong cuộc sống cô đơn, tù túng. Từ sự phản ánh hiện thực với lòng phẫn nộ và sự oán hờn như vậy, nàng triết lý về cuộc đời ảo mộng, dối trá, phù du và tuyệt vọng: 
Trăm năm còn có gì đâu, 
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì. 
ở đây, Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên tâm sự bế tắc của mình, cũng là sự bế tắc của lớp nhà nho thời đại ông, chán chường và mệt mỏi. 
Nghệ thuật Cung oán ngâm khúc về mặt cấu trúc cũng như về mặt ngôn từ đều sắc sảo. Không gian Cung oán ngâm khúc là không gian bưng bít của chốn tiêu phòng lạnh lẽo. Thời gian Cung oán ngâm khúc chủ yếu là mùa thu và bóng đêm. Cảnh trong Cung oán ngâm khúc là cảnh lồng qua màn sương hồi ức và tưởng tượng. Đặc biệt, lối biểu hiện bằng cảm giác là cách viết độc đáo của Nguyễn Gia Thiều có lẽ là lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam, rất tập trung và cô đọng. Những hình dung từ về xúc giác, thị giác, thích giác chọn lọc tài tình, bất ngờ mà đúng chỗ, đã gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Vần điệu song thất lục bát nhuần nhuyễn, phép đối ngẫu được tôn trọng chặt chẽ. Hơi văn, giọng văn réo rắt não nùng, thích hợp với nội dung và tâm trạng con người trong khúc ngâm. 
Nguyễn Gia Thiều là một tài năng đa dạng. Ông thuộc gia đình quý tộc, xuất thân là quan võ. Năm 1782, ông giữ chức Tổng binh ở Hưng Hóa, phong tước Ôn Như hầu, nhưng ông lại xin thôi, về sống cuộc đời tài tử, làm thơ, uống rượu và cả đi tu (ông có hiệu là Như ý Thiền). Ông là một thi nhân mà cũng là một nhạc sĩ. Ông đã sáng tác các bản nhạc Sơn trung âm, Sở từ điệu. Ông vẽ đẹp, có bức tranh Tổng sơn đồ được vua Lê khen thưởng. Ông cũng am tường cả về kiến trúc, Tháp chùa Thiên Tích (Bắc Ninh) đã được xây dựng dưới sự điều khiển của ông. Quãng cuối đời, ông có được triều Tây Sơn mời ra cộng tác, nhưng đã chối từ, về sống ở quê nhà: làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) cho đến khi mất. 
Vũ ngọc khánh 

Tác Phẩm
Những tác phẩm còn để lại, về phần chữ nho có bộ Tiền Hậu Thi Tập, nhưng chưa tìm thấy, chỉ còn khẩu truyền một đôi bài. Về quốc âm thì còn Tây Hồ Thi Tập, Bộ Tứ Trai và Cung Oán Ngâm Khúc. Tiên sinh rất tinh nghề thanh nghệ luật (nghề làm thơ), đã dìu dắt phái thi học đời hậu Lê được lắm nhà thơ hay. Ở tập Chuyết thập tạp chí của ông Lý văn Phức chép truyện Ôn Như Hầu có nói rằng: "Nhất thị ứng khẩu thành tụng, ngữ ngữ khả nhân, nhất thị thiên đoàn bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân". Nghĩa là: một là ra lời nói thành câu thơ, lời lời thảy nghe được, hai là nghìn lần nhồi nặn, trăm lần nung luyện ra câu thơ, lời lời khiến người nghe phải sợ... tức là tiên sinh có tài nhanh chóng cũng hay và có công trau nắn càng hay.
Tài lành dễ đâu chôn lấp được, một thiên "Cung Oán Ngâm Khúc" nay còn truyền xa. Hai chữ Cung Oán là sự oán hờn nơi cung cấm của các cung phi, cung tần đã từng được vua yêu rồi lại bị ghét bỏ, vì lời gièm pha ghen tuông lẫn nhau; hoặc có người đã chọn mà suốt đời không được hạnh sủng, nên đã thốt ra nỗi oán hờn. Trải xem các đời từ xưa nơi cung cấm, cung nhân nhiều đến số ba bốn nghìn, mà trong số ấy thường chỉ có vài người được sủng ái, nên phần nhiều cung nhân có tài học tự làm ra lời cung oán, hoặc các nhà thơ đặt ra lời cung oán, mượn thân phận của cung nữ mà tỷ nghĩ thân phận mình, cũng đề là cung oán. Về sau hai chữ "Cung Oán" thành một cái nhan đề, chuyên nói sự oán hờn của cung nữ. "Cung Oán Ngâm Khúc" sau đây là một khúc ngâm về nỗi oán hờn của cung nhân mà Ôn Như Hầu tiên sinh đã mượn tình trạng cung phi để tự ví thân phận mình; khúc ngâm này dùng điệu "song thất lục bát".

Cung oán ngâm khúc 

1. Trải vách quế gió vàng hiu hắt, 
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, 
Oán chi những khách tiêu phòng, 
Mà xui phận bạc nằm trong má đào. 
5. Duyên đã may cớ sao lại rủi, 
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang, 
Vì đâu nên nỗi dỡ dang, 
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình. 
Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa, 
10. Vẻ phù dung một đóa khoe tươi, 
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười, 
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung. 
Áng đào kiểm đâm bông não chúng, 
Khóe thu ba rợn sóng khuynh thành, 
15. Bóng gương lấp loáng trong mành, 
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa. 
Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn, 
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa, 
Hương trời đắm nguyệt say hoa, 
20. Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình. 
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý, 
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương, 
Cờ tiên rượu thánh ai đang, 
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm. 
25. Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã, 
Địch lầu thu đường gã Tiêu Lang, 
Dẫu nghề tay múa miệng xang, 
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng. 
Tài sắc đã vang lừng trong nước, 
30. Bướm ong còn xao xác ngoài hiên, 
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn, 
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng. 
Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị, 
Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang, 
35. Hồng lâu còn khóa then sương, 
Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành. 
Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ, 
Khách công hầu ngấp nghé mong sao, 
Vườn xuân bướm hãy còn rào, 
40. Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương. 
Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển, 
Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai, 
Hương trời sá động trần ai, 
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi. 
45. Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế, 
Sợi xích thằng chi để vướng chân, 
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần, 
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên. 
Kìa thế cục như in giấc mộng, 
50. Máy thuyền vi mở đóng khôn lường, 
Vẻ chi ăn uống sự thường, 
Cũng còn tiền định khá thương lọ là. 
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết, 
Hình thì còn bụng chết đòi nau, 
55. Thảo nào khi mới chôn nhau, 
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra ! 
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế, 
Ai bày trò bãi bể nương dâu, 
Trắng răng đến thuở bạc đầu, 
60. Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần. 
Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc, 
Lớp cùng thông như đúc buồng gan, 
Bệnh trần đòi đoạn tâm toan, 
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da. 
65. Gót danh lợi bùn pha sắc xám, 
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu, 
Nghĩ thân phù thế mà đau, 
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê. 
Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ, 
70. Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu, 
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô, 
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh. 
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán, 
Chết đuối người trên cạn mà chơi. 
75. Lò cừ nung nấu sự đời, 
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương. 
Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc, 
Thú ca lâu dế khóc canh dài, 
Đất bằng bỗng rấp chông gai, 
80. Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương. 
Mồi phú quí dữ làng xa mã, 
Bả vinh hoa lừa gã công khanh, 
Giấc Nam Kha khéo bất bình, 
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. 
85. Sân đào lý mây lồng man mác, 
Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng. 
Cánh buồm bể hoạn mênh mang, 
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh. 
Quyền họa phúc trời tranh mất cả, 
90. Chút tiện nghi chẳng trả phần ai, 
Cái quay búng sẵn lên trời, 
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm. 
Hình mộc thạch vàng kim ố cổ, 
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong, 
95. Tiêu điều nhân sự đã xong, 
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư. 
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ, 
Quán thu phong đứng rũ tà huy. 
Phong trần đến cả sơn khê, 
100. Tang thương đến cả hoa kia cỏ này. 
Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy, 
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau. 
Trăm năm còn có gì đâu, 
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì ! 
105. Mùi tục lụy đường kia cay đắng, 
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên. 
Cái gương nhân sự chiền chiền, 
Liệu thân này với cơ thiền phải nao. 
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật, 
110. Mối thất tình quyết dứt cho xong, 
Đa mang chi nữa đèo bòng, 
Vui gì thế sự mà mong nhân tình ! 
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa, 
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên. 
115. Thoát trần một gót thiên nhiên, 
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời. 
Ý cũng rắp ra ngoài đào chú, 
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam. 
Ai ngờ trời chẳng cho làm, 
120. Quyết đem dây thắm mà giam bông đào. 
Hẳn túc trái làm sao đây tá, 
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia. 
Hay thiên cung có điều gì, 
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi. 
125. Kìa điểu thú là loài vạn vật, 
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng. 
Có âm dương, có vợ chồng, 
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê. 
Đường tác hợp trời kia run rủi, 
130. Trốn làm sao cho khỏi nhân tình. 
Thôi thôi ngoảnh mặt làm thinh, 
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao ? 
Tay nguyệt lão khờ sao có một, 
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi. 
135. Cái đêm hôm ấy đêm gì, 
Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng. 
Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ, 
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu. 
Cành xuân hoa chúm chím chào, 
140. Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai. 
Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió, 
Áo vũ kia lấp ló trong trăng. 
Sênh ca mấy khúc vang lừng, 
Cái thân Tây Tử lên chừng điên Tô. 
145. Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ, 
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh, 
Mây mưa mấy giọt chung tình, 
Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn. 
Tiếng thánh thót cung đàn thúy địch, 
150. Giọng nỉ non ngón địch đan trì. 
Càng đàn càng địch càng mê, 
Càng gay gắt điệu, càng tê tái lòng. 
Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ, 
Sắp song song đôi lứa nhân duyên. 
155. Hoa thơm muôn đội ơn trên, 
Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời. 
Trên chín bệ mặt trời gang tấc, 
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu. 
Phải duyên hương lửa cùng nhau, 
160. Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào. 
Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt, 
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong. 
Đóa lê ngon mắt cửu trùng, 
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu. 
165. Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt, 
Lòng quân vương chi chút trên tay. 
Má hồng không thuốc mà say, 
Nước kia muốn đổ thành này muốn long. 
Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh Dạ, 
170. Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa. 
Thừa ân một giấc canh tà, 
Tờ mờ nét ngọc lập lòa vẻ son. 
Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi, 
Những khi nào gần gũi quân vương. 
175. Dẫu mà tay có nghìn vàng, 
Đố ai mua được một tràng mộng xuân. 
Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu, 
Ghẹo hoa kia lại diễu gót sen. 
Thân này uốn éo vì duyên, 
180. Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời. 
Lan mấy đóa lạc loài sơn dã, 
Uổng mùi hương vương giả lắm thay. 
Gẫm như cân trất duyên này, 
Cam công đặt cái khăn này tắc ơ. 
185. Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ, 
Đồ liên chi lần trỏ hoa kia. 
Chữ đồng lấy đấy làm ghi, 
Mượn điều thất tịch mà thề bách niên. 
Hạt mưa đã lọt miền đài các, 
190. Những mừng thầm cá nước duyên may. 
Càng lâu càng lắm điều hay, 
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm. 
Ai ngờ bỗng mỗi năm một nhạt, 
Nguồn ân kia chẳng tát mà vơi. 
195. Suy di đâu biết cơ trời, 
Bỗng không mà hóa ra người vị vong. 
Đuốc vương giả chí công là thế, 
Chẳng soi cho đến khóe âm nhai. 
Muôn hồng nghìn tía đua tươi, 
200. Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần. 
Vốn đã biết cái thân câu chõ, 
Cá no mồi cũng khó nhử lên. 
Ngán thay cái én ba nghìn, 
Một cây cù mộc biết chen cành nào ! 
205. Song đã cậy má đào chon chót, 
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người. 
Nào hay con tạo trêu ngươi, 
Hang sâu chút hé mặt trời lại râm. 
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng, 
210. Đêm năm canh trông ngóng lần lần. 
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân, 
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi. 
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ, 
Gác thừa lương thức ngủ thu phong. 
215. Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng, 
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi. 
Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm, 
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ. 
Thâm khuê vắng ngắt như tờ, 
220. Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo. 
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ, 
Dấu dương xa đám cỏ quanh co. 
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu, 
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông. 
225. Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng, 
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền. 
Lạnh lùng thay giấc cô miên, 
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u. 
Tranh biếng ngắm trông đồ tố nữ, 
230. Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu. 
Một mình đứng tủi ngồi sầu, 
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa. 
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải, 
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ. 
235. Hoa này bướm nỡ thờ ơ, 
Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng. 
Đêm năm canh lần nương vách quế, 
Cái buồn này ai dễ giết nhau. 
Giết nhau chẳng cái lưu cầu, 
240. Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa ! 
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ, 
Xe thế này có dở dang không ? 
Đang tay muốn dứt tơ hồng, 
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra ! 
245. Nào dạo lối vườn hoa năm ngoái, 
Đóa hồng đào hái buổi còn xanh. 
Trên gác phượng, dưới lầu oanh, 
Gối du tiên hãy rành rành song song. 
Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng. 
250. Để thân này cỏ úng tơ mành. 
Đông Quân sao khéo bất tình, 
Cành hoa tàn nguyệt, bực mình hoài xuân. 
Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ, 
Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ. 
255. Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà, 
Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong. 
Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy, 
Để thân này nước chảy hoa trôi. 
Hóa công sao khéo trêu ngươi, 
260. Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh. 
Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy, 
Lửa hoàng hôn như cháy tấm son. 
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng, 
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa ! 
265. Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng, 
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn. 
Tình buồn cảnh lại vô duyên, 
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này. 
Khi trận gió lung lay cành bích, 
270. Nghe rì rầm tiếng mách ngoài xa. 
Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra, 
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn. 
Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ, 
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng. 
275. Vắng tanh nào thấy vân mồng, 
Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh. 
Khi bóng nguyệt chênh vênh trước ốc, 
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai: 
Đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi, 
280. Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo. 
Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả, 
Điệu thương xuân khóc ả sương khuệ 
Lạnh lùng nào thấy ỏ ê, 
Khí bi thu sực nức hè lạc hoa. 
285. Tiếng thúy điện cười già ra gắt, 
Mùi quyền môn thắm rất nên phai. 
Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi, 
Thì thong thả vậy cũng thôi một đời. 
Ví sớm biết lòng trời đeo đẳng, 
290. Dẫu thuê tiền cũng chẳng mang tình. 
Nghĩ mình lại ngán cho mình, 
Cái hoa đã trót gieo cành biết sao ! 
Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm, 
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon. 
295. Cùng nhau một giấc hoành môn, 
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình. 
Ví sớm biết phận mình ra thế, 
Dải kết điều ỏe ọe làm chi. 
Thà rằng cục mịch nhà quê, 
300. Dầu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này. 
Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ, 
Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn. 
Muốn đem ca tiếu giải phiền, 
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu. 
305. Ngọn tâm hỏa đốt dàu nét liễu, 
Giọt hồng băng thấm ráo làn son. 
Lại buồn đến cảnh con con, 
Trà chuyên nước nhất, hương đùn khói đôi. 
Trong gang tấc mặt trời xa bấy, 
310. Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu ? 
Sinh ly đòi rất thời Ngâu, 
Một năm còn thấy mặt nhau một lần. 
Huống chi cũng lạm phần son phấn, 
Luống năm năm chực phận buồng không. 
315. Khéo vô duyên bấy cửu trùng, 
Son nào nhuộm được má hồng cho tươi. 
Vườn thượng uyển hoa cười với nắng, 
Lối đi về ai chẳng chiều ong. 
Doành Nhâm một dải nông nông, 
320. Bóng dương bên ấy đứng trông bên này. 
Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục, 
Chốn phòng không như giục mây mưa. 
Giấc chiêm bao những đêm xưa, 
Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày. 
325. Trên chín bệ có hay chăng nhẽ, 
Khách quần thoa mà để lạnh lùng ! 
Thù nhau ru hỡi đông phong, 
Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào. 
Tay tạo hóa cớ sao mà độc, 
330. Buộc người vào kim ốc mà chơi. 
Chống tay ngồi ngẫm sự đời, 
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm ! 
Nơi lạnh lẽo nơi xem gần gặn, 
Há phai son lạt phấn ru mà. 
335. Trêu ngươi chi bấy trăng già, 
Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành ! 
Lòng ngán ngẫm buồn tênh mọi nỗi, 
Khúc sầu tràng bối rối đường tơ. 
Ngọn đèn phòng động đêm xưa, 
340. Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn. 
Mà lượng thánh đa đoan kíp bấy, 
Bỗng ra lòng ruồng rẫy vì đâu ? 
Bõ già tỏ nỗi xưa sau, 
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng. 
345. Đêm phong vũ lạnh lùng có một, 
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh. 
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh, 
Vách sương hót gió đèn xanh lờ mờ. 
Mắt chưa nhắp đồng hồ đã cạn, 
350. Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao. 
Buồn này mới gọi buồn sao ? 
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình. 
Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi, 
Những hương sầu phấn tủi bao xong. 
355. Phòng khi động đến cửu trùng, 
Giữ sao cho được má hồng như xưa. 
  

Nguyễn Gia Thiều 
(1741-1789)