Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu
(1765), niên hiệu Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông. Nơi sinh là phường Bích
Câu, thành Thăng Long (Hà Nội). Lúc bấy giờ, cha là Nguyễn Nghiễm đang làm tể
tướng. Bốn năm trước, người anh cùng mẹ Nguyễn Nễ cũng sinh tại đây. Mẹ đẻ của
Nguyễn Du là Trần Thị Tần vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm. Bà là con gái thứ ba của
một vị quan nhỏ coi việc sổ sách kế toán (chức Câu Kê) dưới trướng Nguyễn
Nghiễm, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Hương
Mặc, huyện Từ Sơn). Bà Trần Thị Tần sinh năm Canh Thân (1740) và mất ngày mùng
6 tháng 7 năm Mậu Tuất (1778) thọ 39 tuổi. Năm đó Nguyễn Du mới 13 tuổi. Bà
Trần Thị Tần thuộc dòng dõi Trần Phi Chiêu (1549 – 1623), ông đậu tiến sỹ năm
Kỷ Sửu (1589) làm quan đến chức thượng thư bộ Hộ, kiêm Đô Ngự Sử, tước Diên
Quận công. Bà là một phụ nữ nết na, thông minh, và xinh đẹp, lại sinh ra tại xứ
Kinh Bắc vùng quê quan họ. Điều đó ảnh hưởng tốt đến hồn thơ Nguyễn Du từ những
ngày còn bé.

Tượng Nguyễn Du
Theo tộc gia phả của
dòng họ Nguyễn Tiên Điền, lên 3 tuổi, Nguyễn Du được tập ấm là Hoàng Tín Đại
phu, xuất thân là Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc bá. Với cái hàm ấy, Nguyễn Du
đã đứng trong hàng sĩ tịch của triều đình nhà Lê, mặc dù chưa phải là một vị
quan tại chức. Nguyễn Du tướng mạo khôi ngô. Lên 6 tuổi bắt đầu đi học chữ Hán,
sách vở chỉ cần xem qua một lần là nhớ. Có lần Viện Quận công Hoàng Ngũ Phúc
đến dinh thự nhà Nguyễn Nghiễm ở phường Bích Câu chơi. Trông thấy Nguyễn Du có
tướng mạo phi thường, lấy làm quý mến bèn tặng ông một thanh Bảo Kiếm.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm thôi chức tể tướng, về trí sĩ ở
quê nhà, Nguyễn Du theo cha về quê. Tại bến Giang Đình, ông được chứng kiến
cảnh vinh hoa của gia đình mình (sau này ông có nhắc lại trong bài thơ Giang Đình hữu cảm). Năm Bính Thân (1776) Nguyễn Nghiễm
mất, lúc đó Nguyễn Du mới lên 11 tuổi. Trong hơn 10 năm ấy, Nguyễn Du sống bên
cạnh cha không nhiều. Năm 1778, bà Trần Thị Tần lâm bệnh rồi mất. Nguyễn Du mồ
côi cha mẹ.
Nguyễn Nghiễm có 8 bà
vợ, ngoài hai bà ở quê là Đặng Thị Dương (mẹ đẻ Nguyễn Khản) và Đặng Thị Tuyết
(mẹ đẻ Nguyễn Điều). Các bà còn lại đều quê ở ngoài Bắc. Bà Trần Thị Tần ít hơn
Nguyễn Nghiễm 32 tuổi, các bà khác còn trẻ hơn.
Cha mẹ mất, Nguyễn Du về
sống với gia đình quan tể tướng tại Tiên Điền. Thủa ấy, dinh cư nhà Nguyễn
Nghiễm rất nguy nga, đồ sộ. Người dân Nghi Xuân hồi đó làm thơ tả cảnh nhà ông
như sau:
Trèo lên Hồng Lĩnh mà trông
Nhìn về đã thấy dinh ông rõ ràng
Lâu đài dãy dọc tòa ngang
Ông ngồi đọc sách nghiêm trang một mình
Nhìn về đã thấy dinh ông rõ ràng
Lâu đài dãy dọc tòa ngang
Ông ngồi đọc sách nghiêm trang một mình
Thời gian này Nguyễn Du bước vào tuổi trưởng thành, việc ăn học
đòi hỏi ngày một nhiều. Sau khi Nguyễn Nghiễm mất, gia cảnh không còn phong lưu
như trước. Đời sống cùng việc học hành của Nguyễn Du không được như khi còn cha
mẹ. Tuy vậy với địa vị và danh tiếng của gia tộc, Nguyễn Du vẫn là cậu Chiêu
bảy được mọi người ngưỡng mộ. Quãng thời gian này, ngoài việc học hành, những
khi rỗi rãi, lễ tết, Nguyễn Du thường cùng với bạn trai phường hát Tiên Điền
vượt truông Hống đò Cài vào Trường Lưu hát ví và xướng họa thơ phú. Qua
những lần đi hát, Nguyễn Du thực sự có cảm tình với o Uy, o Sạ. Đã có lần do
mối thâm tình này mà gây ra bất hòa với trai Trường Lưu. Những năm sau này (sau
1786), khi từ Thái Bình về sống tại quê nhà, trở lại Trường Lưu gặp lại người
xưa, gặp lại cảm xúc thời trai trẻ, Nguyễn Du đã viết bàiVăn tế Trường Lưu Nhị Nữ nổi tiếng.

Mộ Cụ Nguyễn Du
Đất Trường Lưu ngoài hát phường vải có tiếng còn là chỗ thông gia
với họ Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Huy Tự tác giả Truyện Hoa Tiên là con rể Nguyễn
Khản (Lấy Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Thái). Nguyễn Thiện cháu Nguyễn Du là
người nhuận sắc cuốn Truyện Hoa Tiên. Vì
thế, Trường Lưu là nơi đi lại rất đỗi thân tình của Nguyễn Du. Năm Quý Mão
(1783), 19 tuổi, Nguyễn Du ra Sơn Nam ( Nam Định) dự kỳ thi Hương và đậu Tam
Trường (Tú tài). Cùng năm này, anh là Nguyễn Nễ (con bà Trần Thị Tần) em là
Nguyễn Nhưng (con bà Hồ Thị Ngạn), cháu là Nguyễn Thiện (con Nguyễn Điều) thi
đậu Tứ Trường (Cử nhân) ở trường Phụng Thiên.
Sau sự kiện Kiêu binh nổi loạn (1872), dinh thự Nguyễn Khản tại phường Bích Câu bị đốt
cháy. Hoàn cảnh khó khăn, Nguyễn Khản đành xin cho Nguyễn Du làm chức Chánh Phủ
Hiệu tỉnh Thái Nguyên vào năm 1786. Cũng trong năm này, Nguyễn Du cưới bà Đoàn
Thị Huệ con gái Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thân (1752) đang giữ chức
Ngự Sử tại triều, người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam (nay là tỉnh
Thái Bình).
Năm Đinh Mùi (1787), Tây
Sơn tiến quân ra Bắc lấy Bắc Hà. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Du
chạy theo vua xong không kịp, phải chạy về trốn ở quê vợ tại Thái Bình (ở nhờ
nhà anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn). Ông tập hợp hào mục để tính chuyện phục quốc
nhưng chí không thành.
Mười năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu quê vợ là những năm tháng cô đơn
cùng cực của Nguyễn Du, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng
thời gian này là “Mười năm gió bụi” (Thập tải phong trần). Thường ngày ông làm thơ
than thở cho cảnh ngộ của mình, chưa làm nên danh vọng gì đã rơi vào cảnh cùng
khổ.
Điều này khiến ông suy nghĩ nhiều về cuộc đời và thảm cảnh mà gia
đình ông phải gánh chịu. Cho nên mới 30 tuổi mà tóc đã bạc trắng, ông đã
giải bày nỗi niềm của mình trong bài U cư:
…Mười năm trọn quê người nấn ná
Nương quê người tóc đã điểm sương
Nương quê người tóc đã điểm sương
Những năm này, gia cảnh
nhà vợ chẳng có gì khá giả. Đoàn Nguyễn Thục đã mất, con trai lớn cũng mất,
Nguyễn Du đành cõng người con trai còn lại là Nguyễn Tứ về quê cha đất tổ ở
Tiên Điền. Trở lại quê, nhà cửa tan hoang, anh em lưu tán khắp nơi, ông đã phải
thốt lên: “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán” (trở về Hồng Lĩnh gia đình không còn
anh em lưu lạc khắp nơi).
Tuy vậy, ở Tiên Điền,
lúc này bà con thân thuộc, con cháu thì nhiều. Nguyễn Du được bà con gia tộc
chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và sống trong hoàn
cảnh nhung lụa của một gia đình quý tộc nên về quê Nguyễn Du chẳng biết làm gì
ngoài đống sách vở thánh hiền. Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua liếp cửa,
tiếng chuột chạy trên đống sách khiến ông càng thêm buồn. Để khuây khỏa Nguyễn
Du thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu, nai, chồn, xạ
hương…và xuống sống Lam bắt cá. Ông tự đặt cho mình biệt hiệu “ Hồng Sơn liệp
hộ” (Phường săn núi hồng) và “ Nam Hải điếu đồ” (Nhà chài bể Nam).
Sống tại quê nhà nhưng
lòng Nguyễn Du luôn nghĩ về những năm tháng vàng son của gia tộc mình, nghĩ về
nhà Lê. Ông tỏ ý trong các câu thơ:
Hán mất nhất thời vô nghĩa sĩ
Chu sơ tam kỉ hữu ngoan dân
(Buổi nhà Hán sắp mất không còn có người nghĩa sĩ
Lúc nhà Chu mới dậy vẫn còn dân ngoan cố)
Hay: Đàn đắc Kỳ Sơn thánh nhân xuất
Bá Di truy tử bất thần Chu
(Dẫu có bậc thánh nhân ta đời ở đất Kỳ Sơn
Nhưng ông Bá Di tuy đến chết cũng chẳng chịu làm quan cho nhà Chu)
Chu sơ tam kỉ hữu ngoan dân
(Buổi nhà Hán sắp mất không còn có người nghĩa sĩ
Lúc nhà Chu mới dậy vẫn còn dân ngoan cố)
Hay: Đàn đắc Kỳ Sơn thánh nhân xuất
Bá Di truy tử bất thần Chu
(Dẫu có bậc thánh nhân ta đời ở đất Kỳ Sơn
Nhưng ông Bá Di tuy đến chết cũng chẳng chịu làm quan cho nhà Chu)
Mùa đông năm Bính Thìn
(1796), Nguyễn Du toan trốn vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh. Việc bại lộ, tướng
Tây Sơn là quận công Nguyễn Văn Thận bắt giam. May nhờ Nguyễn Văn Thận là bạn
thân của anh ruột cùng mẹ là Nguyễn Nễ (hơn nữa cũng tiếc Nguyễn Du là người có
tài) nên không nỡ giết, chỉ giam vài tháng rồi cho về. Trong bài My trung mạn
hứng ông có ghi lại sự việc này:
Bốn bề giói bụi tình nhà việc nước mà rơi lệ
Mười tuần lao tù nỗi lòng thắc thỏm cái sống chết
Mười tuần lao tù nỗi lòng thắc thỏm cái sống chết
Tháng 6 năm Nhâm Tuất
(1802), Gia Long ra Bắc Hà có xuống chiếu cho các quan chức cũ của nhà Lê phải
ra yết kiến. Nhân dịp đó, Nguyễn Du được vua truyền lệnh theo xa giá ra Bắc
Thành và được dùng làm quan. Tháng 8 năm ấy được bổ làm tri huyện Phù Dung
(thuộc Khoái Châu, Sơn Nam). Tháng 11 bổ làm tri phủ Thường Tín.
Mùa đông năm Quý Hợi
(1803) sứ nhà Thanh phong sắc cho vua Gia Long. Nguyễn Du được cử cùng Tri phủ
Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên; tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên và tri
phủ Tiên Hưng là Trần Lân đi Trấn Nam Quan (Hữu Nghị quan ngày nay) nghênh tiếp
sứ thần.
Mùa thu năm Giáp Tý
(1804) Nguyễn Du lấy cớ bị bệnh xin từ chức về quê. Con đường làm quan với nhà
Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với triều đại này.
Trong bài thơ Hỷ Thúc
phụ Thường Tín giải quan quy Nguyễn Hành có ý khen chú mình là người có dũng
khí:
Thanh bình hà sự cố từ quan.
Dũng thoái như kim ý sở an.
Liệt tước dĩ tàng thiên hạ đắc.
Lệnh danh ưng vị ngã gia hoàn.
Nghĩa là:
Đang buổi thanh bình cớ sao chú lại cáo quan mà về
Chú mạnh mẽ rút lui lúc này là do ý muốn
Chú đã có một chức tước trong thiên hạ.
Thì chú cần phải giữ trọn danh tiết cho nhà ta.
Dũng thoái như kim ý sở an.
Liệt tước dĩ tàng thiên hạ đắc.
Lệnh danh ưng vị ngã gia hoàn.
Nghĩa là:
Đang buổi thanh bình cớ sao chú lại cáo quan mà về
Chú mạnh mẽ rút lui lúc này là do ý muốn
Chú đã có một chức tước trong thiên hạ.
Thì chú cần phải giữ trọn danh tiết cho nhà ta.
Về quê chưa được bao lâu
thì vua Gia Long có chỉ gọi ông vào Kinh Đô. Mùa xuân năm Ất Sửu (1805) được
thăng Đông Các đại học sĩ, tước Du Đức hầu. Đây là một ân sủng lớn mà triều
đình giành cho Nguyễn Du. Bởi Nguyễn Du chỉ đỗ Tam Trường (Tú tài) mà thời đó
phải đỗ Hương cống (Cử nhân) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ triều đình nhà
Nguyễn phong đặc cách cho Nguyễn Du như vậy vì: trước hết Nguyễn Du là một
người có tài, hơn nữa ông lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng lỗi lạc,
một thời gian dài là dường cột của triều đình nhà Lê. Trọng dụng những người
như Nguyễn Du có thể tranh thủ được sĩ phu Bắc Hà.
Tuy ra làm quan to với
nhà Nguyễn, nhưng Nguyễn Du chẳng lấy làm vui mà lại thêm buồn. Buồn vì thời
thế đã thay đổi, lại buồn cho thân phận mình. “Nghĩ mình phận chẳng ra gì”.
Những đêm mưa rả rích ở xứ Huế, một mình nhìn về phía Bắc Đào Ngang lòng càng
thêm đau xót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh đói rách:
Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc
(Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang)
(Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang)
Tháng 9 năm Đinh Mão
(1807), được bổ chức giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Xong việc, ông xin
nghỉ về quê, được vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ Tị (1809) vua lại có chỉ bổ
ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình.
Ông lại buồn thêm cho cảnh cá chậu chim lồng của mình. Lòng luôn
hướng núi Hồng, nhớ những buổi đi săn nai, săn hươu, càng muốn được sống cảnh
thanh nhàn nơi rừng núi. Vì thế, trong mười chín năm làm quan cho triều Nguyễn,
ông sống âm thầm, lặng lẽ, không tấu trình điều gì, chỉ có vâng dạ. Đến nỗi vua
Gia Long đã trách cứ Nguyễn Du: “Nhà nước dùng người, cứ ai hiền tài thì dùng không phân biệt gì
Nam với Bắc cả. Nhà người đã làm quan đến chức á Khanh, biết việc gì phải nói
để tỏ cái chức trách của mình, có lễ đâu cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng, dạ dạ
hay sao?” (Đại Nam chính biên liệt truyện).
Những năm làm Cai Bạ
tỉnh Quảng Bình, phàm những việc trong hạt như: lính tráng, dân sự, kiện thưa,
tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương thuyết với các
quan lưu thư ký mục để thi hành. Nguyễn Du giữ chức Cai Bạ 4 năm, chính sự giản
dị không cần tiếng tăm nên được sỹ phu và nhân dân yêu mến. Năm 1811, nghe tin
trấn Nghệ An bị hạn hán mất mùa, dân đói kém, ông viết thư gửi Hiệp Trấn Nghệ
An Ngô Nhân Tĩnh xin miễn thuế cho dân Nghệ An năm đó và làm thơ cảm tạ:
…Xa nhìn Hồng Lĩnh ngôi sao đức
Nâng chén mừng quê khách dặm ngàn
Nâng chén mừng quê khách dặm ngàn
Cùng năm đó, xảy ra vụ
án Đặng Trần Thương, Nguyễn Gia Cát và Vũ Quý Đình làm 500 đạo sắc giả bán lấy
tiền, càng làm cho Nguyễn Du thêm chán cảnh quan trường, nơi đầy rẫy những kẻ
xu thời trục lợi, chỉ thích vơ vét tiền bạc. Đến tháng 9 năm Nhâm Thân (1812)
ông xin tạm nghỉ hai tháng về quê xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ.
Tháng hai năm Quý Dậu
(1813) có chỉ triệu ông về Kinh thăng hàm Cần Chánh Đại học sĩ, rồi cử đi sứ
Trung Quốc với tư cách là Tuế Cống Chánh sứ. Hai phó sứ giúp việc là Thiêm Sự
Bộ Lại Trần Văn Đại và Nguyễn Văn Phong.
Trên đường đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du lại có dịp trở lại Thăng
Long. Bạn bè ở Thăng Long mở tiệc đưa tiễn ở dinh Tuyên phủ, có gọi mấy chục nữ
nhạc đến giúp vui. Trong đám nữ nhạc ông nhận ra một người mà 20 năm trước, khi
ông từ Thái Bình lên thăm anh là Nguyễn Nễ đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Bây
giờ dung nhan tiều tụy, ông chạnh lòng nghĩ đến việc thế sự đổi thay, buồn bã
thốt lên: “Than ôi! Sao người ấy đến nỗi thế? Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên
cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa nay”. Lòng cảm thương vô hạn, ông đã gửi vào
bài thơ Long thành cầm giả ca.
Ông còn đau lòng
hơn khi đi qua dinh thự nhà mình tại phường Bích Câu. Nhà cũ không còn, Cung
vua, phủ chúa đã thành đường cái quan. Những cô gái quen đã đi lấy chồng, những
bạn trai chơi thân ngày trước thì nên ông, nên lão. Chứng kiến cảnh cũ, ông thương
tiếc, đau xót cho sự biến đổi của cuộc đời.
Ngày 6 tháng 2 năm 1813, đoàn sứ bộ qua ải Nam Quan, đến ngày 4
tháng 10 thì đến Bắc Kinh. Trong thời gian đi sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi
khi đi qua đền chùa, các danh thắng nổi tiếng của Trung Quốc, Nguyễn Du thường
ghé thăm và làm thơ. Ông ca ngợi Hạng Vũ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can… qua sông
Mịch La nơi Khuất Nguyên tự tử, Nguyễn Du làm bài thơ Phản chiêu hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở về
dương gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, ông chê trách Tần
Cối nghe vợ giết trung thần làm Hán gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu
Thanh ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, người con gái tài sắc bạc mệnh, Nguyễn Du
làm thơ khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không)
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không)
Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814) Nguyễn Du trở về nước và có tập
thơ Bắc hành tạp lục. Mùa hạ năm Ất Hợi (1815) Nguyễn Du
được phong chức Hữu Tam Tri Bộ Lễ, tước Du Đức hầu (do đó người xưa thường gọi
ông là Quan Tham Thúy Kiều)

Thành Thăng Long qua tranh vẽ
Mùa thu năm Kỷ Mão (1819) Nguyễn Du được cử làm Đề Điệu trường thi
Quảng Nam, ông dâng biểu xin nghỉ được nhà vua chuẩn y. Tháng 8 năm Canh Thìn
(1820) vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, có lệnh sai Nguyễn Du đi làm Chánh
sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng ông chưa kịp đo thì mất tại Kinh thành Huế
vào ngà 10 tháng 8 niên hiệu Minh Mạng năm đầu (dương lịch 16/9/1820) hưởng thọ
55 tuổi. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Khi bệnh nặng không chịu uống thuốc, bảo
người nhà sờ tay chân, nói đã lạnh rồi, ông bảo tốt, nói xong rồi mất không
trăn trối lại điều gì về sau”. Nguyễn Du chết do dịch tả, trận dịch này bắt đầu từ Xiêm La,
Chân Lạp rồi lây sang nước ta. Sử nhà Nguyễn chép: “Vào khoảng tháng 7, tháng 8, bệnh dịch phát
sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lây lan ra khắp nước đến tận Bắc
Thành, người chết không biết bao nhiêu mà kể. Thành thị thôn quê đều náo động”
Nguyễn Hành bấy giờ đang
ở Bắc Thành được tin chú mất, làm thơ Văn Thúc phụ Lễ Tham Tri phó âm cảm tác
có câu thơ như sau:
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
(Phú dày nhà ta chú đã giữ trọn vẹn
(Bệnh dịch sao có thể làm chú chết nhanh như thế)
Dịch lệ hà năng tốc công tử
(Phú dày nhà ta chú đã giữ trọn vẹn
(Bệnh dịch sao có thể làm chú chết nhanh như thế)
Sự nghiệp văn chương của
đã để lại cho hậu thế gồm:
- Về chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập; Nam Trung
Tạp Ngâm; Bắc Hành Tạp Lục; Lê Quý kỉ sự.
- Về Quốc Ngữ (chữ Nôm): Văn tế Thập loại chúng sinh (Văn
chiêu hồn); Văn Tế Trường Lưu nhị nữ. Và vĩ đại nhất là tập Đoạn trường Tân Thanh mà nhân dân ta thường
gọi là Truyện Kiều.
“Họ Nguyễn Tiên Điền và khu Di tích Nguyễn Du”, Đinh Sỹ Hồng, Ban
quản lý khu di tích Nguyễn Du – NXB Nghệ An, 2005).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét