NGHỆ THUẬT TẢ CẢNH NGỤ TÌNH QUA HAI ĐOẠN TRÍCH: “KIỀU
Ở LẦU NGƯNG BÍCH” VÀ “THÚC SINH TỪ BIỆT THÚY KIỀU”
Nguyễn
Du là bậc thầy ngôn từ của thơ ca Việt Nam, là ngòi bút thiên tài trong việc sử
dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để nói lên tâm trạng con người. Bút pháp tả cảnh
ngụ tình ở đây được hiểu là mượn cảnh vật để gửi gắm tâm trạng của nhân vật. Cảnh
không chỉ là bức tranh tâm trạng mà còn là nơi con người có thể giãi bày tâm trạng
của mình, trong tình có cảnh, trong cảnh có tình. Vì vậy mà Nguyễn Du đã đưa ra
quan điểm của mình khi ông tả cảnh:
“Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu
Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
Nguyễn
Du với ngòi bút điêu luyện, tinh tế trong lối miêu tả cảnh ngụ tình đã đưa tâm
hồn con người hòa vào cảnh vật. Nhưng cũng đồng thời lấy hình ảnh con người soi
dọi tâm hồn tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa hai chiều. Vì vậy, mà trong suốt
thiên truyện, mỗi bước chân của Kiều đều được gắn với hình ảnh của thiên nhiên.
Trong truyện Kiều nghệ thuật tả cảnh ngụ tình thật muôn hình vạn trạng, mỗi một
bức tranh thiên nhiên lại gắn với một tâm trạng của con người, soi dọi con người,
giúp cho nhân vật gửi gắm tâm trạng của mình. Nghệ thuật ấy đã vẽ nên những bức
tranh tả cảnh ngụ tình đạt đến tuyệt bút. Người đọc không thể quên được bức
tranh hòa quyện tình cảnh trong đoạn “Kiều ở Lầu Ngưng Bích”
Đoạn
trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là sự kết hợp, giao hoà của hai yếu tố
cảnh vật và tâm trạng. Hay nói cách khác đó là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh
ngụ tình- một bức tranh tả cảnh ngụ tình đạt đến tuyệt bút. Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của
truyện- Gia biến và lưu lạc, như những cụm mây đen đầu tiên che phủ lên
cuộc đời Kiều. Đành đoạn dứt tình với Kim Trọng, nàng nguyện hiến
thân cứu cha. Cái trong trắng của một tiểu thư từ nhỏ được mẹ cha
bảo bọc, tình phụ tử sâu nặng và lòng hiếu thảo của đứa con ngoan
đã đẩy nàng Kiều vào vòng lừa lọc từ những kẻ buôn người. Nỗi uất
ức của nàng được Tú Bà xoa dịu bằng ngày tháng giam cầm ở lầu cao
với cớ rằng để nàng tịnh tâm, bình phục. Những vần thơ buồn mênh mang
như gieo vào lòng người đọc nỗi niềm sót xa không nguôi.
Trước hết,
Nguyễn Du diễn tả nỗi cô đơn của Kiều. Câu thơ đầu đã đưa người đọc vào không
gian tù hãm nên cảnh vật do đó cũng nhuốm mầu tâm trạng:
“
Trước lầu ngưng bích khóa xuân”
Vẻ
non xa, tấm trăng gần ở chung.”
Kiều bị
giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói lên điều đó.
Chữ khóa xuân lấy từ điểm tích Chu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt trại Xích
Bích, nên Đổng Tước không bị cháy, nhưng chính vì đó đã khóa chặt tuổi xuân hai
chị em Đại kiều và Tiểu Kiều:
“
Đông phong bất dữ chu lang tiện
Đổng
tước xuân tâm tỏa nhị Kiều”
Qua đó
chúng ta nhận thấy đó là không gian tù hãm. Khung cảnh thiên nhiên ở đây được vẽ
ra bằng khung cảnh nội tâm nhân vật. Cảnh vắng lặng, tuyệt đối không có một
chút âm thanh, một bóng người như càng được cô lập Kiều trong sự cô đơn đến rợp
người. Bởi vậy, dù có cả "vẻ non
xa" lẫn "tấm trăng gần" nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên
một chút tươi vui hay ấm áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ "ở chung" thật
khéo. Kiều trông thấy tất cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác gì
nhau và càng không có gì đặc biệt. Hai yếu tố trái ngược non xa, trăng gần tưởng
như phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật
qua con mắt của Kiều. Khung cảnh "bốn bề bát ngát" chỉ càng khiến cho
lòng người thêm gợi nhớ:
“Bốn bề bát
ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi
hồng dặm kia.” Có thể hình dung
rất rõ một không gian mênh mang đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Một người
bình thường đứng trước không gian ấy cũng khó ngăn được nỗi buồn. Với Kiều,
không gian rộng rãi, trống trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời
mình:
“Bẽ
bàng mây sớm đèn khuya
Nửa
tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Đó là một
khung cảnh thiên nhiên rộng mênh mông, vắng lặng không một bóng người. Cái vắng
lặng của thiên nhiên và cái mênh mông của đất trời đã khắc sâu vào trong lòng
người cảm giác cô đơn. Trong tâm hồn Thúy Kiều và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm
chua xót đau thương. Chỉ sáu câu thơ, bằng nét bút chấm phá tài hoa, bức tranh
thiên nhiên luôn làm nền cho hoạt động nội tâm của Kiều. Cảnh tình như hòa hợp
làm một: cảnh buồn, tình buồn, ngôn ngang tâm trạng buồn tủi, cô đơn của Kiều
thể hiện sâu lắng. Qua đó chúng ta thấy được sự thành công của Nguyễn Du trong
việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Theo
dòng tâm trạng của Kiều câu thơ bắt vào nỗi nhớ:
“Tưởng
người dưới nguyệt chén đồng
Tin
sương luống những rày trông mai chờ.
Bên
trời góc bể bơ vơ
Tấm
son gột rửa bao giờ cho phai.”
Khác với
tâm trạng Thúy Kiều khi xa Thúc Sinh và xa Từ Hải sau này. Nỗi nhớ Kim Trọng gắn
liền với kỷ niệm của đêm trăng thề nguyền qua hình ảnh “dưới nguyệt chén đồng”.
Một lần nữa ánh trăng lại hiện ra. Ánh trăng là nhân chứng của tình yêu vẫn còn
đó, lời thề: “tạc một chữ đồng đền xương” vẫn chưa ráo một người, một ngả chia
xa. Người thì “rày trông mai chờ”, người thì bên trời “góc bể bơ vơ”. Lời thơ
ít, ý thơ nhiều, những hình ảnh thơ chọn lọc đã diễn tả được nỗi nhớ nhung da
diết mạnh liệt của Kiều đối với Kim Trọng và tình cảnh bơ vơ của nàng. Càng nhớ
đến Kim Trọng thì Kiều lại càng đau đớn cho thân phận mình, càng nuối tiếc mối
tình đầu trong trắng, nàng càng ý thức được thân phận mình. Sau nỗi nhớ Kim Trọng
đó là nỗi nhớ cha mẹ:
“Xót
người tựa cửa hôm mai
Quạt
nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân
Lai cách mấy nắng mưa
Có
khi gốc tử đã vừa người ôm”.
Nàng đã
nhớ thương cha mẹ khôn nguôi. Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm mà tấm lòng hiếu
thảo của Kiều đã được Nguyễn Du thể hiện thật cao đẹp và xúc động. Với bút pháp
tài hoa độc đáo trong việc sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học. Nguyễn Du đã khắc
họa được bức tranh phong phú và sinh động về ngoại cảnh và tâm trạng qua việc sử
dụng điểm tích cổ của Trung Quốc. Từ những nỗi niềm buồn thương đó,
Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm màu xám trên ánh nhìn xa xăm của Kiều,
đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm, qua tám câu khép lại đoạn trích:
“Buồn
trông cửa bể chiều hôm
Thuyền
ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”
Nhà thơ
đã lấy khung cảnh thiên nhiên để làm nền sự vận động nội tâm của nhân vật trữ
tình. Tất cả đều trở nên hoang sơ: “ Cửa bể chiều hôm” - thời điểm quen thuộc
của nghệ thuật, của những lưu luyến khó tả. Đó là những hình ảnh
những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm
rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối,
có cái gì như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm
đềm xưa kia. Con thuyền và những cánh
buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh hoàng hôn trĩu
buồn, như niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ ngoài khơi xa
mịt mờ, những từ thấp thoáng, xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhòa.
Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về
thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:
"Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi
man mác biết là về đâu!"
Cánh
hoa mỏng manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi,
cánh hoa mỏng manh ấy làm sao chịu nổi sức nước tràn? Cũng giống như
Kiều, một người con gái nhỏ bé, yếu ớt nhưng bị cuộc đời xô đẩy. Nhìn cảnh vật
mà Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau hình ảnh một cửa biển, một
cách hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ, nhưng là nội cỏ dầu dầu:
"Buồn trông nội
cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất
một màu xanh xanh".
Tuy
nhiên, bãi cỏ không còn mang màu xanh tươi như tiết thanh minh tháng ba mà
nó “rầu rầu” gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương. Xanh trời nối
tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn úa, héo hắt. Màu
xanh tàn héo ấy khiến cho bức tranh trở nên ảm đạm. Kiều nhìn vào màu
xanh mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi, nhưng càng hy vọng thì càng thất
vọng. Kiều lại rơi vào nỗi thất vọng ngập tràn. Cảnh buồn hay vì
người buồn nên cảnh mới buồn. Nàng Kiều đã thật sự tuyệt vọng, cảnh
vật mang mầu tâm trạng. Nhìn cảnh vật u ám như tương lai mờ mịt của nàng. Cảnh
vật đưa nàng vào suy nghĩ dằn vặt và đau xót hơn:
”Buồn trông gió
cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng
kêu quanh ghế ngồi.”
Trong
lúc tuyệt vọng nhất, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Từng ngọn
gió mạnh thổi sóng vỗ ầm ầm. Cảnh vật dường như cũng đang nhuốm mấu hưu
quạnh, mang tâm trạng của Kiều, mặt biển dậy sóng, lòng Kiều cũng dậy
sóng. Những đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, như cảnh
báo một tương lai bão táp đang chờ Kiều trước mắt. Người con gái tài
sắc trong hoàn cảnh đó đã hoảng loạn vô cùng. Và toàn bộ tám câu thơ kết
thành một bức tranh thiên nhiên toàn cảnh với mặt biển, chân mây, cánh hoa, nội
cỏ, sóng gào, gió cuốn vừa buồn thảm, vừa ghê sợ. Bức tranh thiên nhiên ấy đồng
thời mang tâm trạng và hoàn cảnh cô đơn, tâm trạng hãi hùng trước tương lai mờ
mịt. Đoạn thơ nói lên hiện tại lẻ loi, đơn độc và báo hiệu ngày mai đầy khủng
khiếp của nàng. Qua đó, chúng ta thấy được ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Du
trong việc sử dụng hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng của Thúy Kiều thật
đúng với lời khen ngợi: “như máu chảy ở đầu ngọn bút và thấu nghìn đời”.
Nếu như
trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du thông qua hình ảnh thiên
nhiên để nói lên tâm trạng buồn cô đơn của Thúy Kiều thì ở đoạn trích “Thúc
Sinh từ biệt Thúy Kiều” Nguyễn Du cũng đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên để
ghi lại giây phút từ biệt và nỗi buồn của Kiều đối với Thúc Sinh cũng như đối với
số phận của mình. Nỗi buồn ly biệt từ lòng người.
Đoạn
trích “Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều”, gồm tám câu năm trong phần lưu lạc và gia
biến. Có thể nói đây là đoạn trích tả cảnh ly biệt đặc sắc nhất. Cảnh ly biệt
có kẻ ở người đi, có bao nhiêu bịn rịn như bao cảnh chia ly khác nhưng cái đẹp ở
đây chính là sự hòa hợp giữa cảnh vật và con người. Cảnh vật cũng như nhuốm màu
ly biệt. Cả không gian, thời gian đều nhuốm màu chia ly.
“Người
lên ngựa kẻ chia bào.
Rừng phong thu đã
nhuốm màu quan san.”
Đây là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp với
rừng phong thu bát ngát rộng lớn. Cả một "rừng phong thu" bao la đỏ ối
"đã nhuốm màu quan san", nơi xa xôi cách biệt. "Màu quan
san" ấy gợi cho ta cảnh ly biệt vẫn thường diễn ra vào mùa thu. Nỗi nhớ
thương của đôi lứa khi chia tay, từ lòng người như thấm sâu vào cảnh vật, vào
không gian bao la, vào sắc lá của "rừng phong thu".
Kim Trọng
đi, Kiều ở lại, một mình đựng lặng lẽ, cô đơn, hướng mắt theo Kim Trọng. Cảm
giác lưu luyến bin rịn khôn nguôi, cảm xúc tạo nên cái cảm xúc biên thùy:
"Dặm hồng
bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy
ngàn dâu xanh".
Con đường
đỏ bụi “dặm hồng”, bụi cuốn lấy yên ngựa của người đi xa “bụi cuồn chinh an”.
Kiều trông theo bóng hình Thúc Sinh, người chồng, vị ân nhân của nàng, nhìn
mãi, nhìn mãi cho đến lúc chỉ thấy màu xanh của ngàn dâu mờ xa cuối chân trời.
Chữ "trông" và chữ "khuất" diễn tả tình cảm lưu luyến khôn
nguôi. Từ màu đỏ của "rừng phong thu" đến màu "hồng" của bụi
cuốn, màu "xanh" của ngàn dâu, đó là màu của tâm tưởng, màu của biệt
li, màu của thương nhớ:
"Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng
chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?"
Màu
xanh ở đây không còn giống màu xanh của cỏ nội dầu dầu. Nhưng màu xanh này cũng
ảm đạm, cũng thê lương. Giữa hai người là sự ngăn cách của ngàn dâu xanh ngắt một
màu. Màu xanh trở nên xa vời và ngăn cách. Câu thơ tự sự bỗng chốc trở thành
câu thơ chữ tình chứa chan tâm trạng. Nguyễn Du đã tiếp nhận hình ảnh ấy để đưa
vào khung cảnh ly biệt giữa Thúc Sinh và Kiều, làm cho cuộc chia tay trở nên bịn
dịn, da diết. Cảnh buồn, người buồn, câu thơ như có một sức lan tỏa đặc biệt,
khiến cho độc giả ngày nay khi đọc câu thơ cũng không khỏi bùi ngùi xúc động.
Cuộc
chia tay nào cũng đến lúc phải xa nhau, phải buồn, mỗi người đôi ngả. Tuy
nhiên, nỗi buồn và cô đơn của Kiều ở đây như có lan tỏa mãnh liệt đến từng cảnh
vật, cảnh vật nhuốm mầu hiu quạnh. Nàng thương mình lẻ loi, cô đơn "chiếc
bóng năm canh", thao thức, thương nhớ, chờ đợi.... Nàng thương Thúc Sinh
đi xa "muôn dặm" vất vả, nhưng mình cô đơn "một mình", và một
ngày một "xa xôi" thêm:
"Người về chiếc
bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một
mình xa xôi".
"Người về" với "kẻ đi" ở
hai phía chân trời. "Chiếc bóng" và "một mình" đều lẻ loi,
cô đơn. Đêm "năm canh" đợi chờ như dài ra. "Muôn dặm" với
bao thương nhớ như "xa xôi" vô tận. Đêm đêm nàng Kiều thao thức, chỉ
có vầng trăng với nàng. Xưa là vầng trăng thề nguyền, chứa chan hạnh phúc,
"Đêm nay" chỉ có vầng trăng li biệt, "vầng trăng ai xẻ làm
đôi", biết bao đau buồn thương nhớ!
"Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa
soi dặm đường"
Đó là một
nỗi cô đơn chia sẻ bao chùm lên toàn cảnh vật. Cảnh vật đó cũng trở nên buồn
bã, thê lương. Nên hình ảnh thiên nhiên nào hiện lên cũng cô đơn, lẻ loi. Đặc
biệt là hình ảnh “Vầng trăng ai xẻ làm đôi”, như một tiếng thở dài bất lực của
số phận. Đồng thời, hai câu thơ đã thể hiện lòng xót thương của Nguyễn Du đối với
số phận và hạnh phúc của Kiều. Qua đấy thấy được ngòi bút tài hoa của ông. Phải
chăng Nguyễn Du đã mượn ca dao để nói vân dụng vào câu thơ của mình? Hay tác giả
dân gian đã mượn câu Kiều để khơi nguồn thi hứng? Rõ ràng truyện Kiều đã thấm
sâu vào tâm hồn dân tộc, đã trở thành lời ru, câu hát dân gian:
“Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Đường
trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng
Đưa
nhau một bước lên đàng
Cỏ
xanh hai dãy mấy hàng châu sa.”
Hình tượng
vầng trăng bị ai xẻ làm đôi đã để lại trong lòng ta bao xót thương và ám ảnh. Ở
đây cảnh vật được xây dựng bằng bút pháp của hội họa: có sắc màu, có hình ảnh
nhưng lại ảm đạm, hiu hắt ? Gợi cảm giác cô đơn rợn ngợp của con người trước
cái bao la, mênh mông của không gian; buồn nhưng không bi lụy bởi cuộc chia ly
ít nhiều còn có hy vọng. Nghệ thuật tả cảnh với những chi tiết được chọn lọc kỹ
càng, chấm phá. Nghệ thuật miêu tả tâm trạng con người khéo léo, sâu sắc, tả cảnh
ngụ tình tinh tế, tài tình. Đoạn trích thể hiện ngòi bút tài năng của nhà thơ
Nguyễn Du, một thiên tài đỉnh cao nghệ thuật. Đoạn trích được đánh giá ngang tầm
với một thiên phú biệt ly. Tác giả đã gạt bỏ những chi tiết tự sự, thay vào đó
để thiên nhiên nói hộ tâm trạng của con người.
Bai nay hay qua di. Mình đang cần tài liệu liên quan đến nghệ thuật tả cảnh trong truyện kiều.
Trả lờiXóaNhững nghệ thuật này làm cho văn học trở nên rất hay, thâm thúy, hấp dẫn hơn. Cảm ơn Blog đã cung cấp cho tôi những tài liệu bổ ích này.
Trả lờiXóa