Hiện nay chất lượng dạy văn và học văn ở nhà trường chưa cao. Môn Văn chưa được học sinh thật sự ham thích và vốn hiểu biết về văn học cổ hạn chế nên việc dạy văn chương cổ lại càng khó khăn. Văn chương cổ vốn là một di sản quí báu thuộc phạm trù thẩm mĩ cổ, có nhiều đặc trưng khác với thẩm mĩ hiện đại. Phương pháp dạy văn chương cổ cho thế hệ hiện đại do đó đòi hỏi nhiều yêu cầu cụ thể riêng. Muốn hiểu thơ văn cổ ta phải đi từ đặc trưng nghệ thuật của nó. Một trong những biện pháp nghệ thuật thường được dùng trong văn thơ cổ là hình ảnh ước lệ, tượng trưng....
Đối với học sinh trong quá trình giảng dạy nhiều năm nay tôi thấy hình ảnh ước lệ, tượng trưng chưa được các em phân biệt rõ ràng, nhiều khi các em còn lầm lẫn chưa phân biệt được đâu là ước lệ, đâu là tượng trưng. Bài viết này nhằm giúp các em nắm chắc đặc điểm ước lệ, tượng trưng phân biệt hai khái niệm đó. Thấy được hình ảnh ước lệ, tượng trưng là sáng tạo nghệ thuật của văn chương cổ có giá trị thẩm mĩ nhất định: dùng hình ảnh ước lệ, tượng trưng đem lại cho lời văn, lời thơ trang nhã, bóng bẩy, súc tích. Đặc biệt tìm hiểu phương thức sử dụng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng của tác giả.
Đối với giáo viên qua việc tìm hiểu nghệ thuật ước lệ, tượng trưng: sẽ có ý nghĩa gợi cho ta phương pháp giảng dạy thích hợp, chúng ta không nên coi ước lệ, tượng trưng là hoàn toàn hình thức cũng không nên coi đó là những chi tiết cụ thể. Và đặc biệt giảng ước lệ, tượng trưng không nên giảng một cách sơ sài đơn giản và phải đặt vào trong văn cảnh gần nghĩa với câu văn, câu thơ hay cụm từ cùng đi với nó tạo tính hình tượng hoàn chỉnh.
Nội dung của bài viết:
Đặc điểm của thủ pháp ước lệ, tượng trưng.
Ước lệ: Là biện pháp diễn đạt bằng hình ảnh có tính chất qui ước thường được dùng trong văn chương cổ.
Ví dụ: dùng hình ảnh “tuyết rơi” để tả mùa đông, “lá vàng rụng” để chỉ mùa thu, “giọt châu” để chỉ giọt nước mắt, “làn thu thuỷ” để chỉ ánh mắt của người con gái.
Ước lệ là một dạng tồn tại đặc biệt của nghệ thuật tuỳ theo hình thức khái quát của từng loại hình nghệ thuật và tuỳ từng thời đại và được cảm thụ khác nhau. Ước lệ trong văn chương, hội hoạ, tượng đài, sân khấu,... không giống nhau. Trong hội hoạ cổ người nghệ sĩ vẽ cái gần mình ở bình diện thấp, cái xa mình ở bình diện cao đó là ước lệ. Trong văn chương cổ năm tháng thời gian địa điểm xác định cụ thể. Thời gian không gian cũng là ước lệ. Trên sân khấu tuồng, động tác tấu và được biểu diễn bằng hành động của người diễn viên quất chiếc roi ngựa vào cái chân mình vừa đi vừa hát vòng quanh sân khấu. Những chi tiết cách điệu hoá như thế là ước lệ.
Tượng trưng: Là biện pháp diễn đạt cái trừu tượng bằng một hình ảnh cụ thể thường lấy từ cây cỏ, chim muông.
Ví dụ: Hình ảnh cây trúc tượng trưng cho người quân tử, cây tùng tượng trưng cho nhân cách cứng cỏi, vững vàng, tuyết tượng trưng cho tâm hồn trong sáng,...
Ước lệ và tượng trưng giống nhau ở chỗ cả hai đều là hình ảnh ẩn dụ và khác nhau ở chỗ tượng trưng là một hình ảnh hoàn chỉnh, ước lệ phần nhiều chỉ là một chi tiết của hình tượng.
Hình ảnh ước lệ tượng trưng là sáng tạo nghệ thuật của mĩ học phong kiến, nó có giá trị thẩm mĩ nhất định. Người xưa dùng hình ảnh cây thông (tùng) bốn mùa có tán lá xanh tươi, quanh năm đứng vững chãi trên dốc núi cheo leo bất chấp bão bùng sương tuyết để tượng trưng cho nhân cách cứng cỏi, có bản lĩnh vững vàng, có khí phách hiên ngang không nghiêng ngả trước uy quyền danh lợi.
Hay hình ảnh hoa dưới nhiều dạng: hoa cười, hoa rơi, hoa tàn, hoa xưa,...để miêu tả người đẹp, sắc đẹp, tình yêu nam nữ,...đó là những sáng tạo nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ.
Phương pháp nghệ thuật cổ không miêu tả hiện thực theo dạng tả chân thực, theo thẩm mĩ văn học cổ dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng đem lại cho lời văn lời thơ trang nhã, bóng bẩy, súc tích.
Ví dụ: Trong “Chinh phụ ngâm”, tác giả miêu tả cảnh đêm người chinh phụ nhớ chồng, khi là cảnh đêm có sương, có mưa (Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun) khi là cảnh đêm có tuyết rơi (Tuyết tiêu gió thốc ngoài hiên) khi là đêm có trăng, hoa (Trăng dãi nguyệt, nguyệt in một tấm. Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông),...
Tác giả không tả một đêm cụ thể nào của thời gian và không gian xác định mà tả cái đêm “tổng hợp” của bao nhiêu đêm người chinh phụ đã trải qua. Tuy tác giả không vẽ ra trước mắt chúng ta một đêm cụ thể nào nhưng cái cảm giác duy trì các hình ảnh gợi ra cho người đọc là nỗi lòng nhớ chồng đau đáu, thiết tha, thấm thía của người chinh phụ.
Song bên cạnh đó ước lệ tượng trưng được sử dụng một cách sáo mòn, công thức làm cho câu văn, câu thơ rơi vào tình trạng nhân nghĩa, hình thức, nghèo nàn về nội dung.
Nghệ thuật dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
Với những hình ảnh ước lệ tượng trưng quen thuộc nhưng Nguyễn Du đã chọn lọc một cách tài tình miêu tả được những bức chân dung với nhiều vẻ đẹp khác nhau để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Khi tả chị em Thuý Kiều:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần”.
Dáng vẻ của họ thanh tú như cây mai, tâm hồn trong trắng như tuyết
- Tả Thuý Vân: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhương màu da”
Qua nhiều hình ảnh ước lệ “khuôn trăng”, nét ngài” hay “ngọc”, “mây”, “tuyết” ta không kể hết được tỉ mỉ nhan sắc Thuý Vân nhưng ta biết được nhan sắc ấy rất tuyệt trần. Vẻ đẹp “trang trọng, dầy đặn” “nở nang, đoan trang”, “mây thua, tuyết nhường” luôn tạo cho mọi người xung quanh một tình cảm yêu mến, độ lượng . Vân hiện lên với chân dung một cô gái đoan trang, phúc hậu.
- Tả Thuý Kiều: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.
Nguyễn Du cũng dùng những hình ảnh ước lệ quen thuộc “làn thu thuỷ”, “nét xuân sơn” để chỉ ánh mắt, lông mày. Tuy vậy với những hình ảnh “hoa ghen, liễu hờn” nhà thơ đã cho thấy nhan sắc Thuý Kiều thuộc loại nhan sắc độc đáo kì lạ, vượt lên sự bình thường. Vẻ đẹp “sắc sảo, mặn mà”.
- Tả Từ Hải: “Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”.
Cách nói ước lệ “râu hùm”, “hàm én”, “mày ngài” để miêu tả vẻ đẹp đường bệ, uy nghi, phi thường của một nhân vật anh hùng, hiệp sĩ
Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ với nhiều biện pháp linh hoạt sáng tạo nên không sáo mòn, người đọc không thấy nhàm.
- Dùng nhiều từ khác nhau; tả giọt nước mắt người đẹp Thuý Kiều:
+ Giọt châu (Giọt châu lã chã khôn cầu)
+ Giọt hồng (Nhìn càng lã chã giọt hồng)
+ Giọt lệ (Rưới xin giọt lệ cho người thác oan)
+ Giọt ngọc (Nàng càng giọt ngọc như chan)...
- Ghép từ ứơc lệ với ngôn ngữ dân gian, tách ra thành những tiểu đối tạo nên cách diễn đạt sinh động:
+ Hoa thải, hương thừa.
+ Hoa trôi bèo dạt.
+ Nước chảy hoa trôi.
- Kết hợp hình ảnh ước lệ với ngôn ngữ dân gian tạo nên cách diễn đạt giàu sức biểu cảm: Hoa ghen liễu hờn
Mây thua, tuyết nhường.
- Kết hợp hình ảnh ước lệ với nhân hoá, thậm xưng:
Hoa cười, ngọc thốt
Hoa ghen, liễu hớn
Mây thua, tuyết nhường.
Ước lệ tượng trưng là một đặc điểm của nghệ thuật thơ văn cổ. Đó là cách diễn đạt theo qui ước, khuôn mẫu có sẵn làm cho lời thơ, lời văn thêm tao nhã, thâm thuý. Các nhà thơ cổ đặc biệt là Nguyễn Du là người đã có nhiều sáng tạo trong thủ pháp này.
Sưu tầm: Nguyễn Thị Huyền Thoại
Ngày 15/12/2012 - 15:13:36
Tác giả: Sưu tầm: Nguyễn Thị Huyền Thoại -*-
Tác giả: Sưu tầm: Nguyễn Thị Huyền Thoại -*-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét