Nguyễn Đình Chiểu ( 1822-1888), tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19 [1].
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng
5 năm Nhâm
Ngọ (1
tháng 7 năm 1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới [2], phủ Tân
Bình, huyện Bình Dương,
tỉnh Gia Định (thuộc
phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Ông xuất
thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền [3], huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên;
nay thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Lớn lên, ông cưới vợ ở đây và đã có hai con (một trai và một gái). Mùa
hạ, tháng
5 năm Canh
Thìn (1820) Tả quân Lê Văn Duyệt được
triều đình Huế phái
vào làm Tổng trấn Gia Định Thành.
Đến đầu mùa thu,
Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân, để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc
dinh Tổng trấn. Ở Gia
Định, ông Huy có thêm người vợ thứ là bà
Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, sinh ra 7 con (4 trai, 3 gái), và Nguyễn
Đình Chiểu chính là con đầu lòng.
Đi học
Thuở nhỏ,
Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo học với một ông
thầy đồ ở làng.
Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi,
vì bất mãn đã làm cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm
cả Nam Kỳ.
Trong cơn binh biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế, nên bị cách hết chức tước. Song vì thương con, cha ông lén
trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ
11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840), thì trở về Gia Định.
Năm Quý
Mão (1843), ông đỗ Tú
tài ở trường thi Gia
Định lúc 21 tuổi. Khi ấy, có một
nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông [4].
Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ
Dậu (1849)[4]. Lần này, ông cùng đi với em trai là Nguyễn Đình Tựu (10
tuổi).
Mẹ mất, bị mù lòa
Ngày
rằm tháng 11 năm Mậu
Thân (32 tháng 12 năm 1848), mẹ Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia
Định. Được tin, ông bỏ thi, dẫn em theo
đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ.
Trên đường
trở về, vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường, nên
đến Quảng Nam thì
Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở nhà một thầy
thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết, nhưng ông cũng đã học được nghề
thuốc. Lâm cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu
đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia
Định). Truyện thơ Lục Vân Tiên của
ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này[5].
Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886,
người làng Thanh Ba, huyện Cần
Giuộc, trước thuộc Gia Định; nay thuộc
tỉnh Long
An) làm vợ. Bà Điền là em gái thứ năm
của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì cảm phục và mến thương thầy, đã xin gia đình
tác hợp. Truyện thơ Dương Từ-Hà Mậu của ông có lẽ được bắt đầu
sáng tác vào thời gian này [5].
Năm 1858, quân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự quyết liệt
của quân và dân Việt, họ vào Nam đánh phá thành Gia
Định vào đầu năm 1859. Sau khi tòa thành này thất thủ (17
tháng 2 năm 1859), Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở Thanh Ba (Cần
Giuộc), tức quê vợ ông. Vô cùng đau đớn
trước thảm cảnh mà quân Pháp đã gây nên cho đồng bào ông, và rất thất vọng về
sự hèn yếu, bất lực của triều đình, ông làm bài thơ "Chạy giặc"[6].
Đêm
rằm tháng 11 năm Tân
Dậu (16 tháng 12 năm 1861) [7], những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm
phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ởCần
Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối
phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm
nghĩa sĩ bỏ mình[8]. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân
dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia
Định là Đỗ
Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh
trong trận đánh này.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam
Kỳ mất về tay Pháp, theo phong
trào "tỵ địa" [9], Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba (Cần Giuộc)
về Ba Tri (Bến Tre), vì không thể sống chung với họ. Chia tay với bạn bè thân
quen, ông làm bài thơ "Từ biệt cố nhân".
Về Ba Tri,
ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình ra phục vụ
cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam
Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã
mù lòa[10].
Tháng
8 năm 1864, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gò
Công là Trương Định bị
thương rồi tuẫn tiết ở Ao Dinh; xúc động, Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và
mười hai bài thơ liên hoàn để điếu ông.
Năm 1867, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản và
Đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông tổ
chức đưa di hài nhà giáo Võ Trường Toản từ
làng Hòa Hưng (Gia
Định) về táng ở Bảo Thạnh (Ba
Tri), Nguyễn Đình Chiểu có đến dự lễ
rước.
Ngày
4 tháng 8 năm
đó (1867), Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ được thành Vĩnh
Long, Nguyễn Đình Chiểu có làm hai bài thơ điếu ông. Có thể ông bắt đầu soạn
quyển thơ Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca trong năm này.
Năm 1868, thủ lĩnh kháng Pháp ở Ba Tri là Phan Tòng (còn có tên
là Phan Ngọc Tòng)
hy sinh, ông làm 10 bài thơ điếu.
Năm 1877, Nguyễn Đình Chiểu dời đến ở làng An Bình Đông (sau đổi là
An Đức) cách chợ Ba Tri khoảng hai cây số[11]
Năm 1883, Tỉnh trưởng Bến
Tre là Michel Ponchon đã đến nhà
để yêu cầu ông nhuận chính quyển thơ Lục Vân Tiên, đồng thời ngỏ ý trao trả lại
ruộng vườn của ông mà họ đã chiếm đoạt [12]. Ông khẳng khái nói: "Đất vua không ai trả thì đất
riêng của tôi có sá gì", rồi khước từ mọi hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền
thực dân. Lại hỏi ý muốn riêng của ông, ông đáp "muốn tế vong hồn nghĩa sĩ
Lục tỉnh", và được viên Tỉnh trưởng chấp thuận. Sau đó, ông tổ chức lễ tế
tại chợ Ba Tri, và đọc bài "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh"[13].
Qua đời
Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ
mất, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm
trọng [14], hai năm sau, ngày 24 tháng
5 năm Mậu
Tý (3 tháng
7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba Tri, thọ 66 tuổi.
Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp
trắng khăn tang của những người mến mộ ông [15].
Tác phẩm
chính
Lục Vân Tiên (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1851), gồm 2082 câu thơ lục
bát. Đây là một "bản trường ca ca
ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng trọng ở đời" đã làm nên tên
tuổi Nguyễn Đình Chiểu [17], và là một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam,
được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu
chuộng [15]. Sau thời gian phổ biến theo lối truyền miệng, truyện Lục
Vân Tiên đã được Duy Minh Thị (tên thật là Trần Quang Quang ở Chợ Lớn) khắc in
lần đầu ở Trung Quốc trước
năm 1864, và đã được các nhà văn như Aubaret, Abel de Michels,
Bajot...dịch ra tiếng nước ngoài [18]
·
Dương Từ - Hà Mậu (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1854). Căn cứ bản Tân Việt (Sài Gòn, 1964) do Phan
Văn Hùm sao lục và hiệu đính, thì tập
thơ gồm 3.456 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen thơ luật Đường (33
bài) và các thể khác...[19]. Tác giả mượn câu chuyện này để nói lên thái độ của ông đối
với đạo Phật và Công giáo Rôma mà
ông không tán thành [20].
·
Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư tiều y thuật vấn đáp, 1867?), gồm 3.642 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen
21 bài thơ và một số bài thơ ca, phú…trích từ các sách thuốc Trung Quốc [21]. Đây là một quyển sách dạy nghề làm thuốc chữa bệnh, viết
dưới hình thức truyện thơ Nôm. Song giá trị chủ yếu ở việc tác giả đã lồng tư
tưởng yêu nước vào nội dung y thuật [22].
Ngoài ra,
ông còn để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế, trong số đó có nhiều bài nổi tiếng,
như:
·
Chạy giặc (1859)
·
Từ biệt cố nhân (1859)
·
Mười hai bài thơ và bài văn tế Tướng
quân Trương Định (1864)
·
Thơ điếu Đông các Đại học sĩ Phan
Thanh Giản (2 bài, 1867)
·
Mười bài thơ điếu Ba Tri Đốc binh
Phan Tòng (1868)
·
Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn (Văn
tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, chưa biết đích xác thời điểm sáng tác)[23].
·
Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây
(chưa xác định thời điểm sáng tác)
·
Thảo thử hịch (Hịch đánh chuột, chưa
xác định thời điểm sáng tác)
·
Ngóng gió đông (chưa xác định thời
điểm sáng tác)
·
Thà đui (chưa xác định thời điểm
sáng tác), v.v...
Sự nghiệp
văn chương
Nguyễn
Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù tối,
và gặp lúc biến loạn mà vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Ông không chỉ là
người con có hiếu, người thầy mẫu mực, mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để
lại nhiều tác phẩm có giá trị.
Ông là nhà
thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện
đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để
"chở đạo, sửa đời và dạy người" [24]. Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng,
rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông. Sự nghiệp
văn chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác:
-Giai đoạn đầu (những
năm 50 của thế
kỷ 19): Trong giai đoạn này, ông viết
"Lục Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu". Có thể xem đây là thời
kỳ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của ông.
-Giai đoạn sau bắt
đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia
Định (1859) cho đến khi ông qua đời (1888): Ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật thiết với
cuộc sống của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như "Chạy
Giặc", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân trận
vong", v.v,...ông đã lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược, phê phán triều
đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến
đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự
nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu [25]
Và dù ở
giai đoạn nào, trong các tác phẩm của ông nổi bật lên ba đặc điểm về nội dung
và hình thức, đó là:
-Ông thường dùng chữ
Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình
dị, giàu sức gợi cảm, khiến cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người
đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam.
-Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những
người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh
hùng Nam Bộ tiên
phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược.
-Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song
điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt
với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã
hội to lớn, khởi đầu chi một thời đai văn chương sử thi mới sau này [26].
Tóm lại,
so với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một
thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí
giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng
căm ghét quân địch và bọn hợp tác...[27].
Thực dân
Pháp cho Tôn Thọ Tường,
là bạn của Đồ Chiểu đến dụ dỗ ông. Đến mấy lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu
tìm cớ lánh mặt, Sau Tường gửi tặng hủ mắm cá lóc, mà Tường nói rõ trong thư là
chính tay của vợ mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần hết, Đồ Chiểu mới
phát hiện ở dưới đáy hũ có mấy nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết thư trách
Tôn Thọ Tường và sai người trả lại vàng.
Michel
Ponchon, tỉnh trưởng tỉnh Bến
Tre cũng đã mấy lần thân hành đến
nhà Đồ Chiểu. Có lần lấy cớ nhờ nhuận sắc bản Lục Vân Tiên, nhưng
ông giả vờ điếc đặc. Có lần viên quan này thông báo việc trả lại ruộng đất ở Tân
Thới (Gia Định) cho Đồ Chiểu, nhưng nhận được câu trả lời: "Đất vua còn
phải bỏ, thì đất tôi sá gì!". Lần khác, M. Ponchon đặt ra vấn đề cấp
dưỡng, Đồ Chiểu nói: "Tôi đây đang sống đầy đủ trong sự tôn kính của các
môn đệ và sự quý mến của đồng bào. Điều đó đã làm tôi thỏa mãn lắm
rồi"...Duy nhất có một lần, M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ
Chiểu nói chỉ mong ước chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn
những người dân đã chết trận, và đã được viên quan này đồng ý. Hôm đó, tại chợ
Đập (nay là chợ Ba Tri), nghe Đồ Chiểu đọc bài văn tế thảm thiết, đông đảo mọi
người đến dự đều không cầm được nước mắt...[28].
Thông tin
liên quan
·
Con của Nguyễn Đình Chiểu có tất cả
là ba trai ba gái. Trong số ấy có nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (con
gái thứ năm)[29] và Nguyễn Đình Chiêm (con trai thứ sáu) đều là người
có tiếng trong giới văn chương.
·
Toàn thể khu đền thờ và mộ Nguyễn
Đình Chiểu tại huyện Ba Tri (Bến
Tre) đã được Bộ Văn hóa Thông tin công
nhận di tích Lịch sử Văn hóa ngày 16
tháng 3 năm 1993.
·
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Hội Văn nghệ Giải phóng Miền Nam đã lập
ra Giải
thưởng Nguyễn Đình Chiểu công
bố năm 1965 dành tặng cho các tác giả, tác phẩm nổi bật trong lĩnh
vực văn học, nghệ thuật ở miền Nam.
Đền
thờ Nguyễn Đình Chiểu trong khu đền mộ.
Chú thích:
1.
Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 405.
2.
Theo Nguyễn chí thế phả do
Đồ Chiểu biên soạn, và cha ông là Nguyễn Đình Huy hiệu chính. Trương Vĩnh Ký trong
truyện Lục Vân Tiên (Sài Gòn, 1889) chép là làng Tân Khánh. Rất có thể Tân Thới về sau được
đổi thành Tân Khánh, hoặc là cả hai nơi này về sau nhập làm một. Làng Tân Thới
ở đâu, hiện nay chưa xác định được, chỉ biết ở tại Tân Triêm, thuộc vùng Cầu
Kho xưa có phần mộ của bà Trương Thị Thiệt (mẹ Đồ Chiểu). Vậy rất có thể làng
Tân Thới ở vùng Cầu Kho, thuộc quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay (theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1,
tr. 21).
3.
Có người cho rằng Đồ Chiểu thuộc
dòng họ Nguyễn Đình ở Phước Yên, thuộc huyện Phong Điền (Thừa Thiên-Huế).
Vì vậy, nhóm biên soạn Nguyễn Đình Chiểu toàn tập đã đi đến đó. Sau khi xem xét
gia phả dòng họ vừa kể, nhóm biên soạn đã kết luận rằng "quê quán Đồ Chiểu
đúng là ở xã Bồ Điền, vì gia phả dòng họ Nguyễn Đình không có chép Đồ Chiểu
cùng các cụ tổ khác của ông" (Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1,
tr. 23).
4.
Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn
tập, tập 1, tr. 26.
5.
Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn
tập, tập 2, tr. 439.
6.
Theo Văn học lớp 11 (nâng
cao), tập 1, tr. 23.
7.
Ghi theo Văn học lớp 11 (nâng
cao, tập 1, tr. 31) và Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 2, tr.
439). Văn học thế kỷ XIX (do PGS. Hoàng Hữu Yên làm Chủ biên,
NXb Khoa học xã hội, 2004, tr. 407) ghi là "ngày 14 tháng 12 năm
1861".
8.
Ghi theo Từ điển Văn học (bộ
mới, Nxb Thế giới, 2004, tr. 1971). Văn học lớp 11 (nâng cao) ghi
khoảng 20 người (Nxb Giáo dục, 20037, tr 30). Theo công văn của Tuần phủ Gia
Định Đỗ Quang là
27 người, theo Huỳnh Tịnh Của là
15 người (dẫn lại theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 407). Theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập (tập 2, tr. 441), thì người chỉ huy cuộc tập kích
là Đỗ Trình Thoại.
9.
Tỵ địa: khi quân Pháp chiếm
dần Nam Kỳ,
người dân ở vùng tạm chiếm chạy sang vùng tự do để lánh quân xâm lược. Vùng đất
người dân chạy đến gọi là "tỵ địa" (giải thích theoNgữ văn 11 (nâng
cao), tập 1, tr. 36).
10.
Ghi theo Văn học thế kỷ XIX (tr.
405). Văn học lớp 11 (nâng
cao, tập 1, tr. 36) viết: "khi về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu tham gia kháng
chiến dưới cờ của Trương Định và
Đốc binh Là". Tuy nhiên, theo GS. Dương
Quảng Hàm, thì "Trương Định có mời ông ra làm quân sư cho mạnh
thanh thế, nhưng ông từ chối" (Văn học Việt Nam, Trung tâm học liệu Sài
Gònxuất bản, 1968, tr. 144).
11.
Khi về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu làm nhà ở đâu
chưa tra được. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 2, tr. 447), thì
đến năm 1877,
ông mới đến ở làng An Bình Đông, và rồi mất ở đây.
12. Ghi
theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 1, tr. 33). Văn
học lớp 11 (nâng cao, tập 1, tr. 36) ghi là "Ponchon tìm cách mua
chuộc ông, cấp đất cho, nhưng ông từ chối".
13
. Lược kể theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập (tập 1, tr. 33).
14
. Theo Lê Chí Dũng, Từ điển
văn học (bộ mới), tr. 1129.
15
.
Theo Văn học lớp 11 (nâng cao), tập 1, tr. 36.
16
. Năm 1959, di cốt của con gái Nguyễn Đình Chiểu là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh cũng
đã được cải táng bên cạnh mộ vợ chồng ông.
18
. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn
tập (tập 1), tr. 67.
19
.
Ở các bản khác, số câu có khác hơn.
20
.
Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 421.
21
. Căn cứ bản in trong Nguyễn Đình Chiểu
toàn tập, tập 2.
22
. Theo Văn học thế kỷ XIX, tr. 423.
23
. Theo Lê Chí Dũng (Từ điển
văn học, bộ mới, tr. 1129), Đồ Chiểu viết bài "Lục tỉnh sĩ dân trận
vong" văn năm 1874.
Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 2, tr. 448), bài này được
làm năm 1884, để đọc trong buổi lễ tế nghĩa sĩ Lục tỉnh tại chợ Ba Tri,
sau khi được chủ tỉnh Bến Tre chấp thuận.
24
. Theo Lê Chí Dũng, Từ điển văn học (bộ
mới), tr. 1129.
25
. Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập
1), tr. 40.
26
. Lược theo Theo Văn học lớp 11 (nâng
cao), tập 1, tr. 37 và 41.
27
. Nhận xét của GS. Phạm Thế Ngũ, Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3, Quốc học tùng thư, Sài Gòn,
1965), tr.29.
28
. Lược kể theo Huỳnh Ngọc Trảng, Ngàn
năm bia miệng, Sở Văn hóa Thông tin Long An xuất bản, 1984, tr.101-102.
29
. Theo tục lệ ở Nam
Bộ, con đầu lòng kể thứ hai, nên mặc
dù Sương Nguyệt Anh là con gái thứ tư trong gia đình, nhưng được gọi là thứ
năm. Tương tự, Nguyễn Đình Chiêm cũng vậy.
Các bài đã đăng bám sát với chủ đề của Blog, nhiều khía cạnh văn học được đề cập, đặc biệt có nhiều tác giả và tác phẩm nổi tiếng được nói tới. Có nhiều bài rất hay và cung cấp cho mình những kiến thức mới, bổ ích mà bây giờ mình mới biết. Trang Blog này thật sự rất bổ ích, giúp ích cho mình rất nhiều trong việc học văn. Thật tuyệt vời !
Trả lờiXóaỪ bạn Huyền ! Mình thấy Blog này có nhiều điều lí thú, đặc biệt là phần tác giả với các bài tham luận ak
XóaMình cũng rất đồng tình với nhận xét của bạn!
XóaThấy Blog này ok lắm á chứ, đọc tiểu sử các tác giả biết thêm đôi chút kiến thức xưa giờ k biết! Mà thấy trên blog này có ghi chú thuộc sản phẩm của dự án văn học dân tộc với giới trẻ.mình nghĩ của các bạn trường xã hội và nhân văn, chỉ có mấy bạn chuyên văn mới làm được cái điều ảo dịu này ! ^^
XóaBlog này thật là thú vị!Mình đã học được nhiều điều bổ ích mà ở trường PT chưa được học !Mình chúc cho Blog ngày càng lớn mạnh hơn! Cảm ơn Bloger!
Trả lờiXóaTrang blog này thật sự rất bổ ích và thú vị, nó đã giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu tài liệu cũng như trong học tập của mình. Các bài viết thật sự rất sâu sắc và ấn tượng ở nội dung. Với mỗi nội dung được đăng tải lên đều bám sát chủ đề một cách đầy đủ nhất.Mình đã tri nhận được nhiều kiến thức trên trang blog này,đặc biệt là phần tham luận.Mình cảm ơn blog đã mang đến những kiến thức thật sự lí thú!
Trả lờiXóaĐúng rồi, pần tham luận hay á bạn!
Xóa